Chọn lấy phần thua để chiến thắng lòng mình.
Cuộc đời có có không không
Cuộc đời có có không không, trăm năm còn lại tấm lòng mà thôi.
Biết đời là mây bay…
Biết đời là mây bay, sao mãi nhặt cho đầy. Ra đời hai tay trắng, lìa đời trắng hai tay.
Tiền có thể mua được ngôn nhà nhưng…
Tiền có thể mua được ngôn nhà nhưng không thể mua được tổ ấm.
Tiền có thể mua được chiếc giường tốt nhưng không thể mua được giấc ngủ.
Câu này là của thằng bạn mình tâm sự. Nghèo nhưng chuẩn luôn. Nhưng dù sao thì chọn giàu sướng hơn. 😀
Tính đua đòi thì hay thể hiên ở nữ
Tính đua đòi thì hay thể hiên ở nữ nhưng tính tham vọng thì lại thể hiện ở nam. – Thích Thiện Thuận
Nếu bạn không thể làm người vĩ đại…
Nếu bạn không thể làm người vĩ đại, hãy bắt đầu làm người nhỏ bé theo cách của người vĩ đại!
Gọi tên Nhi trong đêm…
Gọi tên Nhi trong đêm
Trái tim này nhớ Nhung
Và Lan ơi hãy quên
Những năm tháng anh ở bên Ngọc.
Gọi tên Linh trong đêm
Để mình anh chịu nỗi nhớ Vân,
Một thế giới khác mang Vy đi
Anh chẳng thể có ó ó Ngân.
Gọi tên Hương trong đêm
Sẽ vỡ mồm với Dương
Tình duyên ta thế thôi
Chắc có lẽ không được bên Thảo
TỴ NẠN TRUNG HOA TẠI AN NAM VÀ XỨ CHÀM CUỐI THỜI NHÀ TỐNG
(Chinese Refugees In Annam And Champa At The End Of The Sung Dynasty)
Ký sự của Hok Lam Chan
Chuyển ngữ: Ngô Bắc
Tháng Hai năm 1276, thủ đô nhà Nam Tống tại Lâm An (tức Hàng Châu ngày nay) rơi vào tay quân Mông Cổ, và vị hòang đế cuối cùng của nhà Tống, Chao Hsien, bị bắt giữ. Với sự trợ giúp của các quan thượng thư trung thành, các thành viên còn lại của hòang gia chạy trốn về miền nam.
Trong tháng Sáu, Chao Cheng mới chín tuổi được tôn lên làm vua (Tuan-tsung) tại Phúc Châu. Tuy nhiên, các quan lại cao cấp của tỉnh Phúc kiến từng người một đã bỏ ngũ chạy sang phía Mông Cổ, hòang gia không bao lâu lại phải triệt thóai sâu xuống phía nam hơn nữa, tới tỉnh Quảng Đông. Tháng Ba năm 1277, cứ điểm nhà Tống tại thành phố Quảng Đông (Canton) cũng bị sụp đổ và hòang gia phải vội vã trốn chạy về Mei-wei, trong vùng lân cận của bán đảo Cửu Long (Kowloon), thuộc Hồng Kông ngày nay. Tháng Mười Một, dưới áp lực gia tăng của Mông Cổ, họ phải rút lui theo hướng tây nam dọc theo bờ biển Quảng Đông. Bởi vì Chao Hsien có vẻ không bao giờ tái lập sự kiểm sóat được nữa và bởi có vẻ có vài cơ may để tỵ nạn nơi các vương quốc phiên thuộc Chàm và An Nam (Việt Nam ngày nay), một đợt xuất cảnh hỗn lọan của người Trung Hoa đã xảy ra. Bi kịch của vị hòang đế cuối cùng của nhà Tống đã khơi dậy nhiều tình cảm trong lịch sử, nhưng câu chuyện di dân và tìm nơi tỵ nạn của một số viên chức nhà Tống đã chưa được tìm hiểu đầy đủ. Bài viết này cố gắng đưa ra một sự tường thuật mô tả và trình bày một sự phân tích ngắn về những yếu tố nền tảng đã định hình diễn tiến di dân, cũng như tác động của nó trên ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa được nâng cao tại Việt Nam.
Trong số các quan thượng thư trung thành quy tụ sự ủng hộ cho hòang gia, có bốn khuôn mặt nổi bật nhất: Ch’en I-chung (Trần Nghi Trung?, chú của người dịch] (chết sau năm 1282), Chang Shi-chieh (Trương Thế Chieh] (chết năm 1279), Lu Hsiu-fu (1238-1279), và Su Liu-I. Chen I-chung, một nội các đại thần, đã là người đầu tiên cứu xét đến khả tính tìm chỗ tỵ nạn tại xứ Chàm. Lý do là vì nước Chàm không qúa xa bờ biển Quảng Đông, và là một chư hầu của nhà Tống, nước Chàm có lòng trung thành và thân thiện với Trung Hoa. Ông Ch’en đã khởi hành đến xứ Chàm cùng với các tùy tùng thân cận trong tháng Mười Hai năm 1276 để tìm hiểu tình hình. Su Liu-I, một quan chức cao cấp trong được đòan thị vệ hòang cung, không đồng ý với kế họach của ông, đã đuổi theo thuyền của ông Ch’en trong một nỗ lực thuyết phục ông bãi bỏ chuyến đi, thế nhưng qúa trễ để ngăn chặn ông ta. Một khi đã đặt chân lên xứ Chàm, ông Ch’en đã không bao giờ quay về để gia nhập tóan tỵ nạn hòang gia, mà đã ở lại đó, với lý do là ông nhận thấy mọi việc vượt quá tầm tay của ông để có thể nỗ lực hơn nữa nhằm cứu vãn triều đại. Các sự tường thuật về sự di chuyển của ông khá hỗn tạp; một số cho rằng ông đã chạy trốn sang đảo Java, một số khác nói rằng sang Căm Bốt, và còn có cả tin nói ông sang Nhật Bản. Nhưng theo tập Sung-shih (Tống sử), khi quân Mông Cổ khuất phục xứ Chàm vào năm 1282, ông chạy trốn sang nước Xiêm và từ trần sau đó.
Tuy nhiên, Shih Wen-kuang (Thạch Văn Quang), một trong những phụ tá chính của ông ta, đã không kéo dài thời gian lưu vong. Ông này đã quay lại từ xứ Chàm về thành phố Quảng Đông với một đội thuyền và đội quân tình nguyện người Chàm. Sau khi có sự sụp đổ của nhà Nam Tống, nạn hải tặc hòanh hành dọc bờ biển tỉnh Quảng Đông. Với sự ủng hộ của các người gốc Chàm, Shih Wen-kuang đã thiết lập một thành lũy vững chắc tại thị trấn quê quán của ông, thị trấn Tseng-ch’eng, và đã đẩy lui nhiều cuộc tấn công của hải tặc.
Trong khi vắng mặt Ch’en I-chung, hòang gia, dưới áp lực nhiều hơn nữa của quân truy kích Mông Cổ, triệt thóai về Chinh-so thuộc huyện Chung-shan (Trung Sơn) ngày nay. Tháng Giêng năm 1277, một cơn giông tố đã đánh vào đòan thuyền tỵ nạn. Vì quá hỏang sợ, ấu chúa đã băng hà hồi tháng Năm tại Nao-chou, một hòn đảo nằm giữa Lei-chou và Hua-chou. Kế đó, người em trai tám tuổi của ấu chúa đã được tôn lên kế nhiệm ngai vàng. Chang Shih-chieh được cử nhiệm làm quan phụ trách binh bị với tước hiệu thiếu phó (kèm nhà vua), và trở thành quan chức cao nhất trong triều đình tỵ nạn, và hai ông Lu Hsui-fu và Su Liu-I được cử làm tư lệnh chỉ huy quân đội.
Giống như vị tiền nhiệm Ch’en I-Chung, Chang Shih-chieh cũng cứu xét tới giải pháp tìm kiếm nơi tỵ nạn, có lẽ tại An Nam, phía bắc của xứ Chàm. Điều này xảy ra sau khi có sự thất trận của các lực lượng nhà Tống và sau sự từ trần của hòang đế tại Yai-shan thuộc huyện Hsin-hui ngày nay hồi tháng Hai năm 1278. Vào đầu tháng Bẩy 1277, triều đình hòang gia đã di chuyển từ Nao-chou về Yai-shan: lý do là vì Nao-chou là một hòn đảo ngòai biển khơi, khiến cho việc truyền tin giữa triều đình và các thần dân trung thành trong lục địa gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên, trong tháng Hai kế đó (năm 1278), đội quân nhà Tống bị bao vây bởi quân Mông Cổ dưới quyền chỉ huy của một kẻ đào ngũ khỏi nhà Tống, Chang Hung-fan (1238-1280), và đã phải chịu một tổn thất khổng lồ. Đòan tỵ nạn hòang gia vô cùng nguy khốn. Chang Shih-chieh tìm cách thóat khỏi vòng vây, trong khi Lu Hsiu-fu, không trốn được, đã nhảy xuống biển tự vận. Về số phận của ấu chúa, sự tường thuật phổ biến cho rằng ấu chúa bị chết trên biển cùng với Lu Hsiu-fu, nhưng trong một cuộc nghiên cứu gần đây, có vẻ là ấu chúa đã chết vì sự kinh hòang khi chiếc thuyền của ông ấy bị bể vỡ trong cuộc bao vây. Tuy nhiên, quân Mông Cổ vẫn chưa tin ở sự từ trần của ấu chúa. Lo sợ rằng có thể cuối cùng ấu chúa sẽ bỏ chạy sang xứ Chàm, nơi ấu chúa sẽ có được sự che chở của Ch’en I-Chung, họ tiếp tục truy tìm cho đến khi khám phá ra được thi thể của ấu chúa tại Kao-chou. Hòang thái hậu, nhũ danh Yang, đau khổ vì cái chết của đứa con, đã trầm mình tự vận nơi biển khơi. Thi thể bà đã trôi giạt về Nghệ An thuộc xứ Chàm [?, khi đó Nghệ An đã thuộc Việt Nam từ lâu, chú của người dịch], nơi mà các thổ dân đã dựng các ngôi đền tưởng nhớ bà, và sau này, bà còn được tôn thờ và phong làm nữ thần của biển cả. Tuy nhiên, tin đồn rằng vị hòang đế nhà Tống hãy còn sống sót đã đem lại năng lực cho những kẻ trung thành dọc bờ biển Quảng Đông tố chức nhiều cuộc nổi dậy chống lại quân Mông Cổ nhằm bảo vệ đòan tỵ nạn hòang gia. Chang Shih-chieh sống sót qua cuộc thất trận và quyết tâm đi đến An Nam để tìm kiếm một vài hậu duệ của gia đình nhà vua có thể kế truyền huyết thống của hòang gia. Trên đường đi, thuyền của ông bị lật nhào tại vịnh Ping-chang, nay thuộc huyện Yang-chiang. Ông Chang bị chết đuối và do đó đã kết thúc nỗ lực sau cùng của một đại thần trung thành muốn khôi phục uy quyền của nhà Nam Tống.
Sau khi có sự sụp đổ của triều đình nhà Tống tại Yai-shan, hai viên chức cao cấp, Ch’en Chung-mei (1212-1283) và Tseng Yen-tzu (chết sau năm 1284) đã thành công trong việc trốn thóat sang An Nam. Ch’en, một người đỗ bằng chin-shih [tiến sỉ?, chú của người dịch] năm 1238, đã bị giáng cấp làm một chức quan nhỏ tại Quảng Đông bởi sự phê bình của ông nhắm vào Chia Ssu-tao (1213-1275), một chính khách bị chỉ trích nặng nề nhất của triều Nam Tống. Khi ấu chúa chạy đến thành phố Quảng Châu, Ch’en đã nhanh chóng gia nhập triều đình và được bổ nhiệm làm Đại Thần phụ trách Nhân Viên. Sau khi có sự sụp đổ của nhà Tống, Ch’en đã tỵ nạn tại An Nam và đã được tiếp đón ân cần bởi vua Trần Khoan [? tên húy của vua Trần Thánh Tông là Hỏang, chú của người dịch] (tức Trần Thánh Tôn, 1258-1278) (14) [*a, xem chú *a của người dich]. Khi ông Ch’en từ trần, ông có để lại một bài thơ với các dòng chữ bày tỏ tấm lòng hòai vọng cố hương của ông:
“Khi tôi chết tôi sẽ quay về như một linh hồn từ An Nam.
Khi sống tôi là một thần tôi bất khuất của triều đình nhà Nam Tống”.
Nhà vua Nam cũng là một nhà thơ nổi tiếng, được nói có làm một bài thơ ai điếu cho ông ta [*b, xem chú của ngườI dịch].
Ch’en được cho rằng là có viết một tác phẩm nhan đề Erh-wang pen-mo [Nhị Vương Bản Mộc?, chú của người dịch], trình bày số phận của hai vị hòang đế sau cùng của nhà Tống. Bản văn này được chuyển về Trung Hoa từ An Nam xuyên qua một sứ giả của Mông Cổ hồi năm 1281. Tuy nhiên, Jao Tsung-I, một học giả hiện đại, nghi ngờ rằng bản văn này là một sự ngụy tạo của các văn gia nhà Nguyên (Mông Cổ). Một thập kỷ sau đó, con trai của ông tên Ch’en Wen-sun, bỏ trốn sang phía Mông Cổ và bị kết tội bởi người An Nam là đã chỉ huy quân thù tiến đánh An Nam vào năm 1284. Vô cùng tức giận, nhà vua nói trên đã ra lệnh dùng búa đập nát quan tài của Ch’en Chung-mei.
Tseng Yen-tzu [*c, xem chú của người dịch] là một quan chức cao cấp khác chạy trốn sang An Nam. Tseng, đậu bằng chin-shih năm 1250, đã được bổ nhiệm về đô sát viện tại Lei-chou nằm 1275. Khi hòang triều triệt thóai về thành phố Quảng Đông, ông tự động ra trình diện và được bổ nhiệm làm ủy viên tỉnh Quảng Tây. Trong một cuộc hải chiến với quân Mông Cổ, ông bị gió thổi bay trên sàn tàu nhưng được cứu thóat bởi thủy thủ đòan. Sau đó ông đã lên chiếc thuyền của Su Liu-I và đã đến được An Nam một cách an tòan. Giống như Ch’en Chung-mei, ông được dành cho một sự tiếp đón nồng hậu bởi người An Nam. Khi quân Mông Cổ tiến chiếm An Nam, ông và ông Su Liu-I [*d, tức Tô Lưu Nghĩa, theo An Nam Chí Lược đã bị đàn em giết tại Trung Hoa chứ không có qua An Nam, xem chú của người dịch], đều bị bắt giữ. Trong thời gian tỵ nạn tại An Nam, ông có làm một số bài thơ ca ngợi phong cảnh của xứ sở này; các bài thơ này được phổ biến rộng rãi trong giới học giả bản xứ.
Trong Quyển viết về An Nam trong Yuan-shih (Nguyên sử), có ghi nhận rằng khi quân Mông Cổ chế ngự An Nam, họ đã bắt được hơn bốn trăm quan chức nhà Tống tỵ nạn. Tuy nhiên, có thể đã có một số lượng lớn hơn các quan chức nhà Tống chạy sang tỵ nạn tại An Nam và các nước láng giềng khác.
Sau khi có sự sụp đổ của nhà Nam Tống, một vài quan chức trung thành có phóng ra một sự kháng cự cứng rắn chống lại quân Mông Cổ với sự liên minh của người An Nam tại vùng biên giới Trung Hoa-An Nam. Thí dụ, Huang Sheng-hsu, một thổ quan, thuộc châu Shang-ssu chou, tỉnh Quảng Tây, đã đẩy lui nhiều cuộc xâm nhập của quân Mông Cổ vào lãnh địa của ông ta hồi năm 1292 với sự trợ giúp của người An Nam. Sau hai năm đấu tranh, phe trung thành sau cùng bị đập tan. Huang chạy trốn sang Giao Chỉ (Bắc Việt ngày nay) và đã được che chở bởi một ông hòang bản xứ cương quyết từ chối không chịu giao nạp ông ta cho quân Mông Cổ. Từ năm 1297 trở đi, ông Huang có phóng ra các cuộc đột kích rời rạc từ căn cứ của ông vào phía nam tỉnh Quảng Tây, như không thu gặt được mấy sự thành công [*e] .
Sử ký biên niên của An Nam thế kỷ mười ba, quyển Đại Việt Sử Ký Tòan Thư, có lưu giữ những tài liệu về các dân tỵ nạn nhà Tống tại An Nam. Theo quyển sử này, đã có ba sự kiện quan trọng trong lịch sử di dân của người Trung Hoa sang Việt Nam xảy ra trong thập kỷ cuối cùng của nhà Nam Tống:
1. Tháng Mười Hai năm 1263, Huang Ping, một “thổ tù” từ Ssu-ming chou [châu Tư Minh?, chú của người dịch], tỉnh Quảng Tây, xuất cảnh sang An Nam, cùng với một đòan vào khỏang hai ngàn người, và có đem theo các phẩm vật tiến cống để tặng các ông hòang bản xứ [*f] .
2. Tháng Mười, năm 1274, một đòan tỵ nạn dân nhà Tống đáp vào vịnh Lacat-nguyên [?], An Nam. Họ đến trong một đòan gồm 30 chiếc thuyền mang theo gia đình và sản phẩm để trao đổi, chính yếu là vải vóc và dược liệu của Trung Hoa. Họ được đón tiếp nồng nhiệt bởi các thẩm quyền địa phương và được cấp cho những khu định cư đặc biệt tại kinh đô Thăng Long (Hà Nội ngày nay). Những người tỵ nạn này có biệt danh là “hui-chi: hồi kê” (trở về từ đất nhiều gà lùn: return from the land of poultry) bởi vì người Trung Hoa thời Tống mệnh danh Chàm là “Chi-kuo” (xứ gà vịt: kingdom of poultry) [*g].
3. Trong năm 1285, một người Trung Hoa nào đó có tên là Chao Chung (Triệu Trung) được thuật lại là đã trợ giúp Hòang Thân Trần Nhật Canh [?,đúng ra là Trần Nhật Duật, chú của người dịch], trong việc đẩy lui một cuộc xâm lăng của Mông Cổ tại Hàm Tử Quan. Triệu [Trung] là một người tỵ nạn nhà Tống đã được tuyển mộ bởi Hòang Thân vào đội quân riêng của ông. Ông cùng binh sĩ đã mặc quân phục chiến đấu của nhà Tống. Khi quân Mông Cổ nhìn thấy đòan quân, họ đã sửng sốt nghĩ rằng các lực lượng Tống có thể đã đến giúp người An Nam ở đó, và hậu quả là tinh thần họ đã suy giảm và các cuộc tấn công của họ đã bị nới lỏng [*h].
Một tập tạp ghi thời nhà Minh, Cho-ying-t’ing-pi-chi viết bởi Tai Kuan, bao gồm một sự tường thuật về các người tỵ nạn thuộc nhà Tống tại xứ Chàm. Theo quyển sách này, một viên chức cao cấp nhà Tống nào đó có tên Shen Ching-chih đã chạy sang xứ Chàm sau khi có sự sụp đổ của nhà Tống và đã đưa ra một lời thỉnh cầu lên ông hòang xứ Chàm hãy gửi sự trợ giúp để cứu vãn hòang triều. Ông hòang này nhận thức rằng mình không đủ sức để can thiệp, đã tỏ ý rất tiếc phải từ chối. Khi ông Shen mất đi, ông hòang có làm một bài thơ bày tỏ nỗi đau buồn của ông. Tuy nhiên, sự tường thuật này đáng bị nghi ngờ, bởi không có vết tích gì về vị “quan chức cao cấp” như thế trong bất kỳ tài liệu nào của nhà Tống. Hơn nữa, câu chuyện được nói có cùng một cốt truyện về ông Ch’en Chung-mei, một quan chức nhà Tống quan trọng mà sự tường thật về cuộc đời đã được nêu ra ở trên. Ngòai ra, những câu thơ đầu tiên của bài thơ được nói là viết bởi vị vua Chàm lại giống hệt như những dòng thơ được viết bởi vị quốc vương An Nam để tưởng niệm quan chức được đề cập tới sau [tức Ch’en Chung-mei, chú của người dịch]. Bởi thế, tôi [tác giả bài viết này, chú của người dịch] nghi ngờ rằng Shen có thể chỉ là một nhân vật cấp thấp trong nhóm người tỵ nạn, và câu chuyện về người này rất có thể là bản chuyển dịch dân gian câu chuyện về cuộc đời của Ch’en Chung-mei.
Tập Nguyên sử có gồm hai sự tường thuật về các hành động hào hiệp của một số người tỵ nạn nhà Tống nào đó tại xứ Chàm. Câu chuyện thứ nhất liên quan đến việc làm sao mà một ông hòang xứ Chàm, theo lời cố vấn của một “man-tzu” nào đó, đã bắt giữ một sứ giả của Mông Cổ được phái đến nước Xiêm đã tình cờ đi ngang qua lãnh địa của ông hòang hồi năm 1282. Rất có thể người này là một kẻ tỵ nạn dân nhà Tống, bởi “man-tzu” là từ ngữ của Mông Cổ để chỉ người Trung Hoa sinh sống tại miền Nam Tống đã bị khuất phục. Sự tường thuật thứ nhì kể lại làm thế nào mà một ông hòang khác của xứ Chàm đã sử dụng một cư dân Trung Hoa, có lẽ là một người tỵ nạn thuộc nhà Tống có tên là Tseng Yen, để trù họach một mưu kế nhằm bóp nghẹt một cuộc xâm lăng của Mông Cổ trong cùng năm đó, gây ra bởi sự từ chối của ông hòang không chịu tuyên hứa trung thành với nhà Nguyên (Mông Cổ). Các lực lượng bản xứ không cách nào đối xứng được với quân Mông Cổ, và họ đã triệt thóai lên vùng đồi núi. Ông hòang đã gửi ông Tseng đó đóng vai như một kẻ chỉ điểm chạy sang phe Mông Cổ trong một mưu toan xô đẩy quân Mông Cổ rơi vào bẫy. Không may kế họach đó bị đổ bể và ông Tseng đã bị bắt giữ.
Sự kề cận về địa dư và mối quan hệ chặt chẽ giữa Trung Hoa với An Nam và xứ Chàm, như giữa quốc gia bá quyền và các chư hầu đã là hai yếu tố chính làm nền tảng cho sự di dân. Yếu tố địa dư có tính cách quan trọng hơn. Vào lúc khi mà phần lớn đất đai trong lục địa Trung Hoa đã mất vào tay Mông Cổ và thẩm quyền nhà Tống bị thu nhỏ lại vùng ven biển, hòang gia không có giải pháp nào khác hơn là chạy về phía nam bằng đường biển. Lại nữa, với sự truy kích gắt gao của quân Mông Cổ, không có nơi trú náu nào khác hơn ngọai trừ đi đường biển xuống hướng tây nam của tỉnh Quảng Đông. Khi cứu xét về sự kề cận địa dư, An Nam và Chiêm Thành (Chàm), hãy còn ở xa tầm áp lực của quân Mông Cổ, có vẻ là nơi ẩn náu an tòan duy nhất. Về yếu tố thứ nhì, sự kết buộc chặt chẽ lâu đời giữa Trung Hoa và các vương quốc Việt Nam như giữa quốc gia bá chủ – chư hầu, cũng đóng một vai trò đáng kể. Nhiều thành tố đã phải góp phần vào việc củng cố mối quan hệ ràng buộc này, chẳng hạn như: sự liên hệ chủng tộc, sự thuận tiện về chính trị, sự cam kết tinh thần về một trật tự quốc tế theo tinh thần Khổng học, các đặc quyền mậu dịch béo bở dưới hình thức các phái bộ mang phẩm vật tiến cống, và nhiều thành tố khác. Chính vì mối quan hệ bá chủ-chư hầu này mà người tỵ nạn Trung Hoa đã xem những vương quốc này tại vùng Đông Nam Á như là những nơi có thể ẩn náu trong những thời buổi có sự xáo trộn xã hội và chính trị. Có lẽ cũng chính vì cùng lý do này mà triều đình nhà Tống đã nhận thức rằng việc triệt thóai sang An Nam và xứ Chàm là một giải pháp khả thi.
Cử chỉ thân mật mà các vị vua bản xứ dành cho các người tỵ nạn đời nhà Tống cũng có thể được hiểu trong bối cảnh này. Một mặt, là một chư hầu của một đế quốc vĩ đại, có vẻ đối với họ việc cung cấp nơi ẩn náu cho hòang gia nhà Tống trong những thời kỳ khủng hỏang là một công tác danh dự. Mặt khác, chính họ là hậu duệ của Trung Hoa [nói riêng các vua đời nhà Trần, xem chú thích 30 và chú thích *i của người dịch bên dưới], họ có khuynh hướng nghiêng về phe người Trung Hoa và xác định người Mông Cổ là kẻ thù của họ. Sau hết, sự nhận thức về mối đe dọa quân sự lơ lủng trên đầu từ Mông Cổ và sư lo sợ rằng các người dân du mục này có thể, không như người Trung Hoa, sẽ áp đặt nền trực trị trên họ chứ không phải duy trì nguyên trạng như các nước bá chủ – chư hầu, đã thúc dục họ đi đến việc bảo vệ hòang gia nhà Tống và ngay cả việc liên minh với những kẻ trung quân Trung Hoa chống lại kẻ thù chung.
Trong một khía cạnh khác của cuộc di dân nhà Tống, sự lựa chọn địa phương để đổ bộ và tái định cư cũng là một vấn đề đáng cứu xét về mặt lịch sử. Từ những tài liệu rời rạc có được, rõ ràng là phần lớn các người tỵ nạn đến từ vùng ven biển, đặc biệt là những người từ tỉnh Phúc Kiến vốn đã tham gia vào trong họat động mậu dịch hải ngọai, đã cập bến Việt Nam bằng đường biển. Nhiều phần là họ các đi theo hải trình đương thời và đã cập bến vào những hải cảng ở An Nam hay Chiêm Thành mà họ đã quen thuộc qua kinh nghiệm mậu dịch. Các hải lộ có vẻ là khá thuận tiện, bởi đã có việc ghi nhận rằng khi thuận gió, một chiếc thuyền đi từ thành phố Quảng Châu (Canton) có thể sẽ tới xứ Chàm trong tám ngày. Khi cứu xét về đường bộ, các khu vực biên giới của Bắc Việt có vẻ là các địa điểm thuận tiện cho sự xâm nhập của người tỵ nạn. Bản chất của khu định cư thực dân Trung Hoa đương có và khả tính cho họat động mậu dịch mang đến một lý lẽ khác cho sự lựa chọn địa điểm và sự tái định cư trong cuộc di dân tỵ nạn. Người ta cũng có thể ức đóan về sự kiện rằng các người tỵ nạn Trung Hoa đã được cấp phát các khu vực tái định cư đặc biệt tại Hà Nội nhiều phần là để khuyến dụ các kẻ khác đến gia nhập. Các hải cảng thương mại nơi mà các thương nhân Trung Hoa đã có kinh nghiệm lâu năm trong việc trao đổi với các người dân bản xứ có vẻ là một địa điểm được ưa thích khác cho sự tái định cư người tỵ nạn. Bản chất của khu định cư thực dân Trung Hoa hiện hữu và các cơ hội thương mại có được vì thế đã là các yếu tố quan trọng trong việc định hình nhãn quan của các người tỵ nạn Trung Hoa tại An Nam và Chiêm Thành [lúc bấy giờ].
Cuộc di dân tỵ nạn đời nhà Tống đã tác động một cách đáng kể trên sự phát triển các thuộc địa Trung Hoa và tầm ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa gia tăng tại Việt Nam. Giống như các cuộc di dân tỵ nạn khác trong lịch sử, các người Trung Hoa đời nhà Tống đã xuất cảnh sang An Nam và xứ Chàm với hy vọng ban đầu là tìm kiếm một nơi ẩn náu tạm thời và sẽ trở về Trung Hoa sau rốt. Không may, niềm hy vọng của họ bị giảm dần với sự chinh phục của Mông Cổ trên vùng lục địa Á Châu và các vương quốc lân bang. Với thời gian trôi qua, tư thế của họ đã thay đổi từ tạm thời sang thường trực, và từ người tỵ nạn sang dân thường trú. Như Wada Hisanori đã nhận xét, làn sóng di dân thời nhà Tống này đã đặt nền móng cho sự định cư thực dân Trung Hoa có tính cách thường trực hơn tại Việt Nam. Lý do là vì sự chinh phục Trung Hoa bởi một chủng tộc xa lạ đã làm tiêu tán hy vọng về một sự hồi hương sau rốt về quê quán trong lòng người tỵ nạn. Chính như thế, các dân tỵ nạn đời Tống nhất thiết đã có một tác động đáng kể trên ảnh hưởng gia tăng của Trung Hoa tại Việt Nam. Không giống với những triều đại trước đó, khi mà các người Trung Hoa đến định cư tại An Nam, Chiêm Thành và các quốc gia Đông Nam Á khác phần lớn là các thương nhân, các người chạy trốn hay các hạng người khác thuộc tầng lớp xã hội dưới thấp, lần này nòng cốt của số người tỵ nạn được tuyển chọn từ nhóm người thượng lưu thuộc gia đình hòang tộc và giới sĩ phu học giả. Sự cư trú của lớp người học thức và tỵ nạn chính trị như Ch’en Chung-mei và Tseng Yen-tzu nhất định đã góp phần vào việc cải thiện phẩm chất và nâng cao vị thế xã hội và chính trị của các cư dân Trung Hoa tại Việt Nam và nhất thiết đã góp phần vào sự phát huy văn hóa Trung Hoa (34)[*j]. Khi nhìn dưới hai yếu tố này, cuộc di dân đời nhà Tống sang Việt Nam xứng đáng được xem là một giai đọan đáng kể trong lịch sử quan hệ Hoa-Viêt.
HÌNH ẢNH KÝ ỨC TRƯỜNG SA
Đoàn công tác Bộ tư lệnh Công binh trên căn nhà thuộc thế hệ đầu ở đảo Thuyền Chài tháng 5-1988 Ảnh do – Bảo tàng Hải quân cung cấp
Trường Sa ngày ấy, hoang vu và cô quạnh đã bừng lên như một công trường lớn…

Hàng vạn tấn ximăng, bêtông cốt thép được vận chuyển ra để xây dựng cầu cảng và xây kè chắn sóng bảo vệ Đảo trong chiến dịch CQ’88
Và những người lính ấy, những người đã cùng chia nhau một điếu thuốc, một miếng cơm,… cùng trải qua những gian khó ấy, như càng thêm thấm thía, càng khắc sâu thêm ý nghĩa thiêng liêng của tình đồng đội, của tình người, tình yêu Tổ quốc…
03.

Trộn bêtông để xây kè chắn sóng bảo vệ Đảo

Tàu HQ 503 (Một trong những con tàu lớn nhất của Hải quân Việt Nam thời bấy giờ, cùng loại với tàu HQ 505) vận chuyển vật liệu ra xây dựng Đảo.
05.

Cán bộ chiến sỹ thay ca nhau ngày đêm vận chuyển vật liệu lên Đảo. Đây là phút nghỉ ngơi sau gần một đêm trọn lao động vất vả
06

Giờ giải lao bên cột mốc Chủ quyền tại Trường Sa


Còn đây là cận cảnh, đảo Trường Sa, có các em bé, mà chú Time chụp bây giờ,

Còn đây là quân cảng ở đảo Trường Sa, chụp năm 1983, năm đó, phòng thủ đảo vẫn là hàng rào giây thép gai



Vận chuyển vật liệu xây dựng trên quần đảo Trường Sa trước năm 1988
Đảo Trường Sa sau ngày giải phóng
| Làm móng xây nhà trên đảo Núi Le, Trường Sa năm 1988 – Ảnh tư liệu |
|
Công binh M31 xây kè chắn sóng ở đảo Song Tử Tây tháng 5-2008 – Ảnh: E131 cung cấp
Chuyển vật liệu cho công trình kè chắn sóng ở đảo Song Tử Tây năm 2008 Ảnh: E131 cung cấp
|
|
Xây mới nhà cấp 1 trên đảo Tiên Nữ, tháng 3-1988 – Ảnh: Phạm Văn Minh
|
| Công binh vận chuyển vật liệu xây dựng nhà trên đảo Tiên Nữ năm 1989 – Ảnh do Bảo tàng
|
“Tổ quốc không có nơi xa” (*)
Tập truyện ký của nhà báo Lưu Đình Triều đến tay bạn đọc vào những tháng ngày đặc biệt, khi hằng ngày hằng giờ những thông tin về biển đảo của Tổ quốc luôn được mọi người dân hết sức quan tâm.
Bởi thế, dù phần đầu của tập sách tập hợp các bài viết về những vùng biển đảo, biên giới của Tổ quốc từ cách đây gần 20 năm (Trường Sa – quần đảo bão tố; Ấm lòng, tín hiệu gửi Trường Sa, Hà Giang: trong – ngoài tầm pháo giặc; Pháo đài Trà Cổ; Côn Đảo, năm tháng đời người…), người đọc vẫn thấy rất đỗi gần gũi.
“ “ |
Thời gian gần đây, đã có nhiều nhà báo trẻ được đi thực tế ở Trường Sa và đã có rất nhiều bài viết về cuộc sống lính đảo. Cùng chung thông điệp: cuộc sống lính đảo còn vô vàn thiếu thốn nhưng các anh vẫn kiên cường bám đảo để giữ vững chủ quyền đất nước, song đọc lại các bài viết của Lưu Đình Triều, mới thấy ngày ấy anh đã quan sát và ghi nhận được những chi tiết đắt đến ám ảnh: “Thấm thía nhất cái khổ cực của lính là lúc xem các anh đá banh. Từ bé đến lớn tôi chưa bao giờ thấy một trái banh lạ như vậy. Nó được khâu vá chằng chịt. Ở đảo sắt còn bị tàn phá nói gì đến những quả banh… Song vẫn chưa thấm gì so với hụt hẫng về tinh thần”. Và cái thiếu thốn về tinh thần ấy – trong đó thiếu nhất là những mối quan hệ bình thường của xã hội – thể hiện trong một câu chuyện thật xót xa: “Thiếu tá Trần Huy Lưu trầm ngâm kể: Có lần đoàn thành phố ra thăm, lính đã cố xin bằng được tất cả quần áo của một phụ nữ tốt bụng rồi chia nhau cất giữ”. Và Lưu Đình Triều đã tự lý giải hành động ấy của những người lính bằng cái nhìn đầy cảm thông, nhân bản: “Họ ấp ủ trong hòm xiểng hay đặt dưới gối để làm gì, nếu không là giữ lấy một mùi hương? Mẹ, vợ, chị, em, người yêu – tất cả đều mù mịt nơi xa.
Có chăng chỉ là hình ảnh trong mơ, nên “tặng phẩm” trên vẫn là cái gì rất thực và vô cùng quý giá…”. Khó khăn là thế, nhưng một người lính “đen nhẻm” vẫn cười vô tư, và câu nói “vô tư” của anh mà Lưu Đình Triều đã ghi lại khiến người đọc chứa chan xúc động: “Đảo của mình thì xa gần gì cũng phải giữ chứ. Chằng lẽ nơi xa thì không là Tổ quốc?”.
Cứ thế, ở phần 2 của tập sách – Những vùng đất: con người và khoảnh khắc, các bài viết của Lưu Đình Triều tiếp tục lôi cuốn người đọc bởi thái độ yêu thương chân thành của tác giả đối với những vùng đất xa xôi mà anh có dịp đặt chân đến, với những con người có số phận đặc biệt mà anh có dịp tiếp xúc. Cách viết mà độc giả đã dành nhiều thiện cảm cho Lưu Đình Triều từ tập sách đầu tay Bật một que diêm tiếp tục được phát huy, có điều ở tập sách thứ hai này, những con người mà Lưu Đình Triều đề cập, dưới cái nhìn của anh, mang tầm vóc thời cuộc.
“Tôi ngờ rằng khi viết báo, với Lưu Đình Triều là lúc anh rung lên những hồi chuông. Hồi chuông ấy ca ngợi tuổi trẻ và cũng tự nhắc nhở về mình” (Lê Minh Quốc). Một cuốn sách đáng đọc để soi lại mình trong tâm thế tuổi trẻ một thời.
Phạm Thu Nga (*) NXB Trẻ ấn hành
“