Cơn ác mộng ‘Điện Biên Phủ’ của người Mỹ ở Khe Sanh

Trong suốt cuộc viễn chinh ở Việt Nam, giới quân sự Mỹ luôn mơ ước được dàn quân đánh nhau với quân chủ lực Bắc Việt Nam trên một mặt trận lớn, chấp nhận cả trường hợp chiến trường rừng núi như ở Điện Biên Phủ.

Nắm bắt được “nguyện vọng” này, Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam đã tương kế, tựu kế, mở mặt trận Đường 9 – Khe Sanh để hút và giam chân một bộ phận quan trọng chủ lực tinh nhuệ của Mỹ – Sài Gòn trên chiến trường rừng núi, tạo bí mật, bất ngờ và chia lửa cho các lực lượng cách mạng miền Nam trong tiến trình Tổng tiến công Xuân Mậu Thân 1968.

Khởi đầu như một đòn nghi binh chiến lược, chiến sĩ Khe Sanh cùng toàn mặt trận B5, đã áp dụng thế trận bao vây, đánh hiệp đồng binh chủng, tiêu diệt một bộ phận lớn sinh lực quan trọng, phá hủy khối lượng lớn phương tiện chiến tranh của Mỹ, ngụy, giải phóng một địa bàn gần một vạn dân. Đường 9 – Khe Sanh là một chiến thắng vang dội cả về chính trị và quân sự của Việt Nam cho đến ngày nay.

Sa bàn Khe Sanh trong Nhà trắng

Từ năm 1962, quân Mỹ và quân Sài Gòn xây một căn cứ không quân – lục quân ở một thung lũng hẻo lánh ở gần khu vực biên giới Việt-Lào, có ý nghĩa chiến lược do nằm gần tuyến vận chuyển “Đường mòn Hồ Chí Minh” nổi tiếng. Ở ngưỡng cửa năm 1968, tư lệnh Mỹ ở Nam Việt Nam, tướng Westmoreland, quyết định rằng cần phải “thả mồi ngon” lùa quân Bắc Việt vào bẫy, để buộc tướng Giáp phải đánh nhau theo cung cách quy ước, vốn là sở trường của quân Mỹ. Chiến dịch này mang tên Operation Scotland (1-11-1967/31-3-1968), nhận được sự tán thưởng của bộ sậu “diều hâu” ở Washington và Sài Gòn, Tổng thống Johnson cho đắp sa bàn Khe Sanh ở Nhà trắng và hằng ngày nghe “giao ban” về chiến sự ở đây. Vậy là, trong vành đai sắt dựng trên khu vực giáp giới với miền Bắc và Lào, ngoài hàng rào điện tử Mc Namara và hàng loạt căn cứ như Cửa Việt, Cồn Tiên, Đông Hà, Cam Lộ… Khe Sanh được kỳ vọng sẽ là “nam châm” hút quân Bắc Việt, để dùng ưu thế hỏa lực tiêu diệt trong một thế trận “Điện Biên Phủ đảo ngược”.

Cả Nhà trắng, Lầu Năm góc và Bộ chỉ huy viễn chinh Mỹ ở Sài Gòn (MACV) tập trung nghiên cứu chiến lệ Điện Biên Phủ (Hồ sơ nghiên cứu trận Điện Biên Phủ phục vụ riêng cho tổng thống Johnson dày hàng chục trang, trong tổng số vài trăm trang hồ sơ về trận Khe Sanh đã được giải mật). Cả MACV lẫn Bộ chỉ huy tối cao Hoa Kỳ đều đã nhận thấy Khe Sanh có một thế mạnh căn bản so với không chỉ với Điện Biên Phủ (ĐBP), mà với mọi pháo đài từng có trong lịch sử. Đó là Khe Sanh được hỗ trợ bởi hệ thống hỏa lực cực mạnh, chế áp độc lập từ bên ngoài, gồm hàng chục lần chiếc pháo đài bay B-52 đánh phá mỗi ngày (lấy từ kế hoạch Operation Arc Light, 1965-1973, theo hồ sơ mật Nhà trắng, các phụ tá quân sự đã nhiều lần trấn an Johnson về khả năng rải thảm ở mọi điều kiện thời tiết của B-52), gồm yểm trợ đường không cự ly gần bởi lực lượng khoảng 2.000 máy bay chiến đấu khác của không quân chiến thuật, không lực của hải quân, không lực của thủy quân lục chiến, với tần suất 500 lần chiếc ngày, hoạt động được cả trong điều kiện tầm nhìn zêrô (bay hoàn toàn bằng khí tài) cũng như ban đêm. Khe Sanh còn được yểm trợ bởi trực thăng: 3.300 chiếc (Operation Niagara II); các tổ hợp ra-đa kể cả loại tân kỳ như SKY SPOT; 16 bộ pháo tự hành trên xe xích “Vua Chiến trường” 175mm bố trí tại trại Ca-rôn ở gần Cam Lộ và trận địa trên đỉnh Rock Pile, 18 lựu pháo 105mm, 8 lựu pháo 155mm tại các căn cứ pháo binh tại Quảng Trị, pháo yểm trợ tầm trung từ trận địa bắc đèo Hải Vân… Được đặc biệt tin tưởng còn có đạn pháo 105mm COFRAM (Combined Ordinance Fragmentary Antipersonnel Munition) nổ từng tràng trên cao, văng vô vàn mảnh bao phủ một tầm sát thương rộng lớn, giống như bom bi (Cluster Bomb Unit), chủ yếu được để dành, nhằm tạo bất ngờ lớn một khi Khe Sanh bị tràn ngập; cũng như đạn pháo “tổ ong” (flechettes), khi nổ bắn ra muôn vàn mũi tên thép trong một hình nón 30 độ, rất hữu hiệu chống chiến thuật biển người… Bảo đảm kỹ thuật – hậu cần cho Khe Sanh, bao gồm tải thương bằng trực thăng (MedVac); và phương thức tiếp tế LAPES (thả dù ở độ cao tầm thấp) thực hiện bởi một cầu hàng không hiện đại, qui mô đến mức hoàn hảo trên các máy bay trọng tải lớn C-130, C-132. Oét-mô-len có thể đáp ứng cho Khe Sanh tới 600 tấn hàng tiếp tế/ngày, trong khi Na-va chỉ cung cấp được cho Điện Biên Phủ 100 tấn là cùng. Từ 19 đến 25 tháng Giêng, một hệ thống cảm biến điện tử hiện đại mang bí hiệu Muscle Shoals được triển khai quanh Khe Sanh để hỗ trợ cho các hệ thống trinh sát đường không và trên bộ. Còn phải kể đến lực lượng cơ động chiến lược gồm sư đoàn kỵ binh bay số 1 và sư đoàn không vận 101, đã hiện diện ngay trước Tết ở vùng chiến thuật I (CT1), để sẵn sàng từ ngoài đánh vào để cứu Khe Sanh. Tại cao điểm của chiến trường Khe Sanh, 15-3-1968, tướng Westmoreland tăng cường lực lượng cho vùng CT1 từ 38 tiểu đoàn Mỹ khi quân Bắc Việt Nam bắt đầu phong tỏa Khe Sanh lên 54 tiểu đoàn, tức là hơn một nửa số quân Mỹ viễn chinh ở Nam Việt Nam.

Tuy nhiên, trong số những người ở Washington tin tưởng rằng sẽ có một “Điện Biên Phủ” ở Khe Sanh, không phải nhân vật nào cũng nhất quyết rằng Mỹ chắc thắng được ở đó. Theo thư gửi Tổng thống ngày 10 tháng Giêng năm 1968, một đại diện cho khuynh hướng ngờ vực này phát biểu: “Điều đáng lo ngại là sự tập trung của bộ đội Việt Nam ở Lào chống lính thủy đánh bộ (LTĐB) đồn trú ở Khe Sanh. Tổng thống nên yêu cầu tướng Westmoreland cân nhắc lợi hại về việc rút khỏi Khe Sanh, nhất là khi đường 9 đã bị cắt… Tổng thống cần được yên tâm rằng, tướng Westmoreland tuyệt đối tự tin về khả năng đương đầu ở Khe Sanh; vì đây chính là cơ hội tốt nhất để một Điện Biên Phủ xảy ra. Mà kẻ địch thì đang tìm kiếm một trận Điện Biên Phủ”. Cho dù thông điệp đầu năm 1968 của Tổng thống Mỹ đầy khích lệ, nhưng mối lo ngại về cái dớp “Điện Biên Phủ” vẫn lơ lửng trong phòng bầu dục. Có lần, Johnson quay về phía các trợ lý quân sự và hét to “Quỷ tha ma bắt cái trận Điện Biên Phủ kia đi!”.

Trụ vững ở chân, nhưng lại “ăn” một cú vào đầu

Kể từ kỳ Giáng sinh 1967, tin tình báo dồn dập báo về. Hà Nội đã tiến hành một chiến dịch tiếp tế được hiệp đồng cực kỳ tốt theo Công văn báo cáo Tổng thống 22-1-1968 của tướng Gút-pa-xtơ. Cường độ vận chuyển, cả bộ lẫn thủy tại địa phận khu 4 của miền Bắc, cũng như của đường Hồ Chí Minh đã đột ngột tăng (trung bình mỗi ngày đêm, xe tải chuyển được tới 2.200 tấn hàng, gấp 8-10 lần so với trước, và đủ cung cấp cho một sư đoàn Bắc Việt trong điều kiện tác chiến trong 22 ngày – công điện báo cáo của DIA – tình báo quân sự Mỹ, ngày 19-1-1968). Trước đó, 11-1-1968, tổng hợp tin tức của CIA về mối đe dọa đối với Khe Sanh, phụ tá về an ninh của tổng thống báo cáo với Johnson về việc cộng sản “có vẻ đang sử dụng thời gian từ nay đến Tết để hoàn thành việc tập trung quân quanh Khe Sanh, chuẩn bị tiến công (căn cứ này) vào ngay sau Tết, bằng lực lượng “2 vạn quân… tương đương với 4 sư đoàn”.

Tướng Westmoreland lập tức phản ứng linh hoạt. 11 tháng Giêng, Westmoreland gặp tướng Cushman, tư lệnh quân Mỹ ở vùng chiến thuật I. Ngoài hai tiểu đoàn tăng cường LTĐB Mỹ hiện đóng ở Khe Sanh, kế hoạch tăng viện I sẽ là một tiểu đoàn LTĐB Mỹ đến nơi 8 giờ sau khi có lệnh, kế hoạch tăng viện II sẽ là một tiểu đoàn LTĐB Mỹ nữa, đến nơi 12 giờ sau khi có lệnh… Westmoreland cũng lệnh cho Cushman trong trường hợp khẩn cấp, điều theo thứ tự ưu tiên thứ nhất, một lữ đoàn của sư đoàn Americal vào khu vực Huế/Phú Bài. Thứ tự ưu tiên thứ hai, chuẩn bị tăng cường cho Vùng chiến thuật I tại các khu vực Huế/Phú Bài/Đà Nẵng, hoặc Chu Lai quân tiếp viện hoặc từ sư đoàn không vận 101, hoặc từ sư đoàn kỵ binh bay số 1. Các cuộc hành binh bổ trợ là lữ đoàn lính thủy đánh bộ Nam Triều Tiên đang di chuyển về Đà Nẵng và một số đơn vị của sư đoàn LTĐB số 1 đã tách ra để triển khai ở phía bắc đèo Hải Vân. Một số đơn vị của sư đoàn 3 lính thủy đánh bộ cũng đang tách ra để hành quân về tỉnh lỵ Quảng Trị. (Hồ sơ Nhà trắng, báo cáo của Westmoreland 12-1-1968). Điều trớ trêu là, thời hạn 31 tháng Giêng mà Westmoreland quy định phải điều động xong quân tăng cường cho vùng chiến thuật I (khu vực cận giới tuyến quân sự tạm thời và biên giới với Lào) lại chính là ngày sẽ đi vào sử sách phương Tây với cái tên là “cuộc tiến công Tết” đồng loạt nổ ra trên toàn miền Nam, gồm cả những nơi mà các đơn vị này vừa dời đi. Nhưng vẫn còn “may” cho Westmoreland. Vào những ngày ngay trước Tết, Weyand, tư lệnh Mỹ ở vùng chiến thuật III, một viên tướng gốc tình báo đã cảm nhận được những biến động quanh Sài Gòn, nhưng chủ yếu là do không thích đánh nhau ở rừng núi và biên cương. Ông ta đã xin được với Westmoreland đưa lực lượng cơ động quay về be chắn Sài Gòn. Trước giao thừa, 27 tiểu đoàn Mỹ đã trở lại tuyến phòng thủ Sài Gòn, còn 22 tiểu đoàn khác ở vành đai. Về sau Westmoreland sẽ ca ngợi đây là một trong những quyết định quan trọng nhất của cuộc chiến tranh Việt Nam. Còn các sử gia phương Tây thì cho rằng nếu hoàn toàn sập bẫy Hà Nội, đem đại quân đi càn quét vùng sâu vùng xa, Mỹ đã có thể mất Sài Gòn về tay Mặt trận Giải phóng trong dịp Tết Nguyên đán 1968.

Như để đáp lại “đơn đặt hàng” của Mỹ, chiều 20 tháng Giêng, quân Bắc Việt Nam đã khởi sự bằng pháo kích dữ dội bằng rốc-két (kachiusa) và cối vào căn cứ Khe Sanh. Kho đạn dược và kho nhiên liệu cho trực thăng nổ tung, đường băng cũng bị cày nát. Tướng Westmoreland viết báo cáo nhiều trang, cho thấy, vì dự liệu được cuộc tiến công này, từ đầu tháng, ông ta đã ban bố hàng loạt mệnh lệnh nhằm “tập trung quân lực Mỹ lớn nhất trong khả năng cho phép để đánh trả địch” (báo cáo 21-1-1968). Giữa những điều động và tăng cường trinh sát, ngày 19 tháng Giêng, Westmoreland đã điều tất cả các phi vụ ném bom của B.52 về vùng trọng điểm này. Cũng từ đây, tướng Westmoreland sẽ bắt đầu gần ba tháng liền tù tì “trực chiến” tại Sở chỉ huy, không về nghỉ đêm ở nhà riêng nữa. Chiến sử Khe Sanh của Mỹ cũng bắt đầu từ đây và đã tiêu tốn vô vàn giấy mực cho tới nay. Nhà trắng còn cẩn thận lưu vào Hồ sơ Khe Sanh những bài báo gây chấn động. Đáng chú ý có hai bài ra ngày 29-1-1968, Việt Nam: bão đang nổi lên; và Trận Khe Sanh: bước ngoặt có tính then chốt.

Ở Washington, tổng thống Mỹ theo dõi chặt chẽ tình hình chiến sự ở Khe Sanh. Giôn-sơn bắt Bộ tham mưu liên quân phải ký “quyết tâm thư bằng máu” giữ Khe Sanh. Trước đó (12-1-1968), Westmoreland khẳng định Khe Sanh, ngoài giá trị chiến lược về quân sự như chiếc “mỏ neo” ở phía tây của hệ thống phòng thủ vùng giáp giới tuyến, còn chặn đường “địch” xâm nhập xuống các tỉnh duyên hải trù phú. Từ bỏ Khe Sanh sẽ tạo ra một chiến thắng trọng đại về phương diện tuyên truyền cho đối phương, làm mất tinh thần của Mỹ và “Việt Nam cộng hòa”. Giới quân sự Mỹ dường như đã chuyển từ hành động quân sự thuần túy (chiến tranh quy ước) sang quan điểm chiến tranh còn chịu sự chi phối của các mục tiêu chính trị. Những hạt giống như thế này rồi sẽ nảy mầm thành những luận thuyết dạng như “Mỹ đã không thua về quân sự, chỉ thất bại về chính trị ở Việt Nam” xuất hiện ở Hoa Kỳ gần đây.

Ở Khe Sanh, bất chấp 40 lần không kích của B-52 và 500 lần chiếc máy bay chiến thuật mỗi ngày, đối phương vẫn chưa xuất kích. Johnson lo lắng. Ngày 2 tháng 2, ông ta lại thúc bách Chủ tịch hội đồng liên quân Uyn-lơ phân tích sự tương đồng giữa Khe Sanh và Điện Biên Phủ. Trả lời vào hôm sau, Uyn-lơ lại trích báo cáo của chính Westmoreland để trả lời tổng thống. Theo đó, kỹ năng tác chiến và nhất là công năng vũ khí của Mỹ hiện có ở Khe Sanh đều “trên tài” người Pháp ở ĐBP nhiều lắm. Điều lạ là trong dịp này, Westmoreland lại hỏi xin thêm máy bay C-130, máy bay trực thăng; các vũ khí cá nhân hiện đại hơn như tiểu liên M-16, súng máy M-60 và cối M-29 cho quân Sài Gòn. Việc quân Giải phóng và cả du kích miền Nam sử dụng những vũ khí mới gây nên một sự hoảng loạn trong hàng ngũ ngụy quân; theo báo cáo 25-2-1968, quân Sài Gòn từ nay gọi súng carbine là “súng đồ chơi”, đòi người Mỹ phải chi ra những khí giới mới.

Lạ hơn nữa là Westmoreland lại đề cập khả năng dùng đến vũ khí hạt nhân chiến thuật, hoặc vũ khí hóa học, “nếu tình hình vùng gần giới tuyến quân sự tạm thời thay đổi nghiêm trọng”. Chuyện này làm người ta không thể không liên tưởng đến kế hoạch “Chim kền kền” của Mỹ đời tổng thống Eisenhower, đòi ném bom nguyên tử xuống Điện Biên Phủ.

Cuối cùng miền Bắc cũng “xơi gọn” Làng Vây

Không có tin về Khe Sanh nổ súng không có nghĩa là tin tốt. Vì quân Bắc Việt dĩ nhiên đang chuẩn bị chiến trường. Qua trận Cồn Tiên vài tháng trước, đã lộ rõ ý đồ áp dụng kinh nghiệm vây lấn ở Điện Biên Phủ. Đại bác thường được “đút” ngang hông các triền núi, khi bắn kéo ra ngoài, bắn xong vài loạt lại rút ngay vào trong hầm để tránh phản pháo. Bộ binh thì tiến dần vào cứ điểm quân đồng minh (quân của Mỹ, Sài Gòn và đồng minh của họ) bằng cách đào công sự tỏa ra như nan quạt, vừa đào vừa đánh. Lần này những chiến thuật như thế không thể gây kinh ngạc đến mức phải tự vẫn, như đại tá pháo binh Pháp Piroth ở Điện Biên Phủ, nhưng vẫn được nói đến trong các báo cáo chiến sự ở Khe Sanh. Quân Mỹ sẽ dùng B52 đánh “sát sườn” căn cứ của mình, hoặc sử dụng mọi thứ hỏa lực, kể cả bom na-pan để ngăn chặn từ xa sự lan tỏa trận địa chiến hào của đối phương.

Trong khi dõi theo chiến sự đang tiếp diễn ác liệt trên toàn miền Nam, Washington vẫn dỏng tai chờ tiếng súng mở màn Khe Sanh. Hôm 4-2, sau khi đọc báo cáo về việc đối phương “đang chuẩn bị tiến công cực kỳ mãnh liệt ở Vùng chiến thuật I”, một phụ tá quân sự cao cấp, tướng Ginsberg, được Johnson tuyệt đối tin tưởng, đã tâu rằng, chắc là tại B52 và máy bay ném bom chiến thuật đã làm “xáo trộn kế hoạch tiến công của Bắc Việt Nam”, hoặc giả, Hà Nội đang chờ các chiến trường phối thuộc, tức là các thành phố ở miền Nam, tổng công kích đợt hai.

Dường như không muốn Nhà trắng phải thất vọng, ngay hôm sau, mồng 5 tháng 2, một số đơn vị thuộc Sư đoàn 325 của miền Bắc đã tiến công cứ điểm 861 thuộc lực lượng đồn trú Khe Sanh, kết hợp với 4 giờ liền nện rốc két, cối và pháo hỏa chuẩn bị. Báo cáo cho Nhà trắng biết, thủy quân lục chiến Mỹ và B52 cũng đáp lại dữ dội. Bắt đầu từ đây, Westmoreland được yêu cầu gửi báo cáo chi tiết hằng ngày về Khe Sanh, gồm cả thời tiết, và tình trạng đường băng là yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động của cầu hàng không tiếp tế cho Khe Sanh và tải thương, bao nhiêu loạt COFRAM đã được bắn. Nổi bật trong đó dĩ nhiên là con số lính Mỹ chết hoặc bị thương trong ngày ở Khe Sanh và bao nhiêu trong số thương vong này đã được sơ tán bằng trực thăng. Số liệu này của ngày 5-2 chẳng hạn, là bảy lính cổ da (LTĐB Mỹ) tử trận, 44 người khác bị thương. Những cơn buốt đầu của ông chủ Nhà trắng được thể hoành hành dữ dội hơn.

Dịp này, Rostow viết báo cáo cho Tổng thống, nhấn mạnh: “À đây rồi, chính nó (thời điểm bản lề của cuộc chiến tranh)!”. Ông ta lưu ý rằng Việt cộng sẽ còn tổ chức những đợt tiến công mới vào các tỉnh lỵ, đô thị, vì cú sốc đầu tiên dành cho quân đội và bộ máy chính quyền Sài Gòn tuy mạnh, nhưng chưa đủ sâu. Ông tái khẳng định rằng cuộc chiến đấu trong các đô thị chính là “chiến dịch nghi binh then chốt” để hút quân dự bị đang dành để ứng cứu Khe Sanh phải trở về đánh nhau ở các thành phố (!) Cũng trong báo cáo này, Rostow đề xuất với tổng thống Mỹ, vì đây là “trận đánh có ý nghĩa quyết định đối với hướng đi của châu Á trong một thời gian dài và vị thế của Hoa Kỳ trên thế giới và là trận đánh chỉ được phép thắng, tổng thống cần:

1- Điều ngay sư đoàn không vận số 81 sang Việt Nam bằng máy bay.

2- Tăng cường lấy quân ở Việt Nam và các nơi khác nữa.

3- Huy động lực lượng dự bị ở Hoa Kỳ …

Rạng sáng 7 tháng 2, căn cứ lực lượng đặc biệt (LLĐB) Làng Vây, cách Khe Sanh 5 dặm về phía bắc bị tràn ngập bởi trung đoàn 66, “hung thần” của trận thung lũng Iađrăng 1965. Tướng Giáp đã xuất chiêu với “bảo bối” mới: các xe tăng do Liên Xô sản xuất. Viên chỉ huy Khe Sanh đã từ chối ứng cứu cho hơn 500 lính mũ nồi xanh đóng ở Làng Vây, sợ mắc mưu “đánh điểm diệt viện” của QĐND Việt Nam. Nhưng các máy bay phóng pháo đã tới oanh tạc. Nếu việc xe tăng xuất hiện ở chừng mực nào đó không hẳn đã là một bất ngờ (Nhà trắng đã dự kiến sự xuất hiện của bộ đội không quân và tên lửa Việt Nam ở Vùng chiến thuật I này), thì việc xe tăng tiến vào cứ điểm Làng Vây từ ba hướng, chỉ bị phát hiện khi đã ở trong hàng rào thép gai, lại gây sửng sốt, ngờ vực. Thái độ bạc đãi (tước vũ khí, giam xuống hố) của lính thủy đánh bộ Mỹ ở Khe Sanh đối với các lính LLĐB người Thượng chạy thoát từ Làng Vây về khiến người ta nghĩ rằng đã có một sự khắc phục bài học “nội phản”, như của cứ điểm Bản Kéo ở Điện Biên Phủ. Hồ sơ rút kinh nghiệm Điện Biên Phủ ở Nhà trắng có đề cập một nguyên nhân thất bại của tập đoàn cứ điểm này là, quân Pháp đã “sống chung” với một số lượng dân thiểu số bản xứ, mà người Pháp cho rằng đã có điệp viên của Việt Minh trà trộn vào. Trong thời gian Làng Vây bị tiến công, Khe Sanh cũng bị pháo kích, gây tổn thất cho lính thủy đánh bộ (LTĐB) Mỹ.

Thoái chí, nhổ neo chuồn

Sự căng thẳng “trước giờ nổ súng” mà Khe Sanh áp đặt khá lớn. Một số phụ tá quân sự và an ninh đã phải làm các động tác lên dây cót cho ông chủ Nhà trắng. Trong báo cáo 4-2-1968, tướng R.Ghin-đen-bớc tìm cách động viên tinh thần của các tư lệnh, cũng như Tổng tư lệnh (tức là tổng thống Johnson) bằng cách nêu lại một kinh nghiệm về giờ G (thời điểm đổ bộ) trong thế chiến II mà ông nghĩ là có ích cho Khe Sanh… Trong báo cáo 8-2-1968, một ngày sau khi mất Làng Vây, như là Him Lam của Điện Biên Phủ, đại sứ C. Lốt-giơ đã viết, vì quan điểm của ông có thể đã bị ai đó gièm pha “nơi trướng gấm” (Nhà trắng), ông tái khẳng định rằng không hề nghiêng ngả trong ủng hộ chủ trương giữ Khe Sanh, coi đó như một quyết định sống còn. Nhưng chỉ một tuần sau, gió xem ra đã đổi chiều. Rostow viết cho tổng thống trong báo cáo 14-2-1968 về Khe Sanh như sau:

“Tôi biết rằng Khe Sanh chiếm chỗ quá nhiều trong tâm trí của ngài, cũng như của tôi. Rất có thể đã quá muộn để làm được điều gì trong hoàn cảnh này. Nếu đúng như vậy, cần phải dẹp bỏ mọi nghi ngại sang một bên và sẵn sàng chiến đấu. Mặt khác, nếu còn có thời gian để áp dụng một ảnh hưởng hữu ích (lên tình hình), thì ta phải hành động ngay.

Tôi vừa xem lại các ý kiến của tướng Westmoreland trong các điện văn gần đây. Theo đó, ông ta trình bày rằng việc chiếm đóng Khe Sanh từ ban đầu đã được biện minh bởi nhu cầu thiết lập một căn cứ hành quân nhằm tiến hành các hoạt động ngăn chặn các đường thâm nhập chính yếu từ đông Lào sang. Quan trọng hơn, việc chiếm đóng này còn ngăn chặn địch tiến về Quảng Trị, cũng như ngăn chặn chiến sự lan tới vành đai đông dân ven biển của Vùng chiến thuật I. Nhưng Westmoreland lại thừa nhận rằng Khe Sanh chẳng hữu hiệu mấy trong ngăn chặn thâm nhập từ Lào, và vai trò ngăn chặn (Quân giải phóng) tiếp cận Quảng Trị cũng chẳng rõ rệt lắm, cả trong quá khứ lẫn hiện tại.

Vậy là tướng Westmoreland trở nên không ủng hộ mạnh mẽ cho việc phòng thủ Khe Sanh nữa, bởi vai trò hiện tại của nó trong ngăn chặn các đường thâm nhập từ Lào hay trong phòng thủ khu vực chủ yếu của các tỉnh phía Bắc (của Nam Việt Nam). Cho dù tướng Westmoreland có nói trong một cuộc điện thoại với tướng Uyn-lơ rằng, ông tin tưởng rằng việc giữ Khe Sanh sẽ đem lại cơ hội, vào một lúc nào đó, chống lại đòn đánh mạnh của kẻ thù. Nhưng ông đã không nhấn mạnh điều này. Ngược lại, qua các bức công điện, ông tỏ ra bị căng thẳng do những khó khăn của việc rời bỏ Khe Sanh, cùng những hậu quả tâm lý sẽ đến của cuộc rút lui này, ảnh hưởng lên Nam Việt Nam và lên công chúng Mỹ…”.

Những căng thẳng dồn nén trong chiến cuộc Xuân 1968 đã dẫn đến tuyên bố nổi tiếng của Johnson hôm 31 tháng ba, hạn chế việc ném bom tới rìa phía Bắc khu phi quân sự, bày tỏ sự sẵn lòng đàm phán của phía Mỹ, cũng như quyết định không chạy đua cho một nhiệm kỳ tổng thống nữa. Ngay hôm sau, vào ngày “nói dối”, 1-4, cuộc hành binh giải tỏa Khe Sanh bắt đầu. Hồ sơ Nhà trắng giai đoạn này cũng phản ảnh “chiến dịch nghi binh” bằng một liên đội tăng cường quân kỵ binh bay Mỹ, tiểu đoàn 3 LTĐB Mỹ và chiến đoàn 2 của Sài Gòn, được yểm trợ bởi năm tàu chiến Mỹ, đánh về phía tây bắc Đông Hà báo cáo 4-4-1968), để phân tán lực lượng “địch” đang vây ép Khe Sanh. Hồ sơ trận Khe Sanh của Nhà Trắng, hiện mới giải mật đến hôm 5-4-1968. Theo các nguồn tin khác của Mỹ, quân kỵ binh bay Mỹ đã phải nện nhau thật lực với quân Bắc Việt Nam hôm mồng 6, cũng như trận đánh tại lô cốt cũ của Pháp ở Khe Sanh kéo dài 3 ngày liền từ 4 đến 7 tháng 4. Nhìn chung, hoạt động đánh trả đầu tháng 4 của đối phương được các báo cáo trong hồ sơ Khe Sanh là “không mạnh”, để quân kỵ binh bay thuộc loại “hàng xịn” còn mã hồi cho sớm. Nhưng, vẫn theo nguồn tin Mỹ, khi Ngựa bay chính thức kết thúc hôm 15-4, tức là sau hai tuần, đã có gần 800 lính Mỹ và hơn 200 lính Sài Gòn bị loại khỏi vòng chiến đấu trong chiến dịch giải tỏa Khe Sanh này.

Giấu đi đâu một “Điện Biên Phủ” nữa

Tưởng như đã bưng bít xong, nhưng rồi Nhà Trắng lại chao đảo lần nữa vì Khe Sanh. Lần này, lại vẫn do lũ nhà báo giở giói ra. Ngay từ hôm 24-6 phóng viên Giôn Ca-rôn của tờ Mặt trời Baltimore đã loan tin Bộ chỉ huy Mỹ “vừa buộc phải rút bỏ Khe Sanh, một căn cứ quân sự được (Mỹ) phòng thủ với một giá đắt, do vị trí rào cản có tính sống còn của nó ở dưới khu giới tuyến”. Bộ chỉ huy Mỹ mập mờ phủ định tin này, nhưng tay phóng viên khẳng định “Các thủy quân lục chiến biết việc này, người Bắc Việt Nam biết việc này, chỉ có nhân dân Mỹ là không biết. Mặc dù Bộ chỉ huy Mỹ giải thích việc này (bỏ Khe Sanh) là do những yêu cầu về quân sự đặt ra, nhưng miền Bắc cho đây là thất bại nghiêm trọng nhất cả về chiến thuật lẫn chiến lược của Mỹ trong cuộc chiến tranh này”.

Theo báo cáo dành cho tổng thống 25 và 26-6-1968, quân sư “quạt… máy” Rostow đã phải nhanh chóng ra tay. Một là, ông ta đã mất nửa giờ thuyết phục hãng tin Mỹ tầm cỡ toàn cầu AP đừng đưa tin của Mặt trời Baltimore. Hai là, để hỗ trợ cho Abrams hiện đang rối beng lên về việc “tiêu thổ” ở Khe Sanh và trăm thứ việc khác trên toàn miền Nam, Rostow đã dự thảo để MACV ra một tuyên cáo. Cốt lõi cho tuyên cáo này là, quân Mỹ phải bỏ Khe Sanh chỉ vì “địch đã thay đổi chiến thuật”. Tuy nhiên. Rostow vẫn còn lo Westmoreland, đã nổi đóa vì bị Abrams qua mặt, cho bỏ Khe Sanh ngay sau khi người tiền nhiệm vừa rời gót, sẽ phản đối luận điệu này. May mà mọi sự êm thấm. Rostow đã dàn xếp được để phát biểu của Abrams ở Việt Nam, và của Westmoreland ở Honolulu không chống nhau. Thông báo của Bộ chỉ huy Mỹ hôm 26-6-1968 đã không dài dòng văn tự như kịch bản Rostow dự thảo, chỉ gồm hai luận điểm, để khỏi hở sườn. Một là, việc căn cứ Khe Sanh “thôi không hoạt động nữa là do địch đã thay đổi chiến thuật”. Hai là, Bắc Việt Nam hiện đang tập trung ở vùng quanh Khe Sanh tới 8 (!) sư đoàn, chứ không còn là 6 sư đoàn như hồi tháng Giêng 1968.

Tác động của Mỹ rút bỏ Khe Sanh đối với công luận được tác giả Peter Bush đánh giá như sau:

“Tướng Abrams ra lệnh giữ bí mật chuyện đóng cửa căn cứ càng lâu càng tốt. Đến khi chuyện này buộc phải công bố chính thức, chỉ một lượng thông tin nhỏ được cung cấp. Sự kiện bỏ Khe Sanh được công luận Mỹ nhìn nhận một cách “đầy ngờ vực và hoang mang”. Lầu Năm Góc ghi nhận việc công bố quyết định bỏ Khe Sanh là “một sứ mạng khó khăn về phương diện tuyên truyền”.

Ngày 7 tháng 7, tờ Thời báo New York đưa tin từ Hồng Kông, cho rằng người châu Á nhìn chung tin vào lý do Mỹ phải bỏ Khe Sanh mà đài Hà Nội đã đưa ra, và bác bỏ cách giải thích của Mỹ, theo đó việc bỏ Khe Sanh là do “tình hình về quân sự đã thay đổi”.

Không giống như một số trận đánh khác, Khe Sanh đã chiếm được chú ý của truyền thông đại chúng và công luận ở Mỹ. 25 phần trăm thời lượng phim chiếu trên chương trình truyền hình buổi tối trong tháng 2 và tháng 3 năm 1968 tường thuật tình hình ở Khe Sanh. Riêng kênh CBS, tỷ lệ này là 50 phần trăm. Viện Gallup đưa ra số liệu, cứ 5 người thì 1 vừa chuyển từ lập trường diều hâu sang bồ câu trong khoảng cuối tháng 2, đầu tháng 3. Vì thế, cách tốt nhất để làm cho Khe Sanh khỏi gây ảnh hưởng xấu đối với công chúng Mỹ là bỏ căn cứ này”.

Nhưng cho đến ngày nay, Khe Sanh vẫn là một chủ đề gây nhức nhối ở Mỹ. Và để làm dịu bớt, còn nhiều tư liệu của Mỹ dần dà sẽ được giải mật. Và người dân sẽ được thông tin đầy đủ hơn về việc Nhà Trắng và bộ sậu diều hâu ở Mỹ đã “lãnh đủ một Điện Biên Phủ” ở Khe Sanh ra sao trong chiến cuộc Xuân Mậu Thân.

Theo QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN

Thư tình gửi em yêu

Chỉ khổ con trai!!!

1.Trước khi quen em thì anh lãnh học bổng, đến khi quen em rồi thì học bổng của anh em lãnh.

2. Có một quả táo, em ăn. Có 2 quả táo, em ăn quả to.

3. Em xấu xí như vậy mà anh vẫn khen em xinh. Anh đẹp trai như thế mà em lại bảo anh xấu.

4. Đi chơi toàn anh tiêu tiền, khi về ký túc xá anh chỉ dám ăn mì tôm.

5. Lúc em giận, anh phải làm thùng rác cho em đổ nỗi bực dọc. Lúc anh bực tức thì anh phải làm thùng rác cho chính mình.

6. Khi em muốn hôn anh, em liền hôn. Khi anh muốn hôn em thì trước tiên phải được em cho phép.

7. Em thường xuyên đánh anh, anh chưa bao giờ đánh em.

8. Có lần em hỏi anh nếu em yêu một người khác thì anh làm thế nào, anh nói sẽ đánh cho Ông kia một trận. Anh lại hỏi nếu anh yêu người con gái khác thì thế nào, em trả lời rằng em sẽ giết anh ngay.

9. Đến nhà em anh phải ngủ ở ghế sopha. Em đến nhà anh, anh cũng phải ngủ ở sopha.

10. Anh mua tặng em một cái áo 60.000, anh nói dối là chỉ có 40.000. Em mua cho anh cái đồng hồ 100.000, em lại nói dối anh là 500.000.

11. Cùng 1 con cá em ăn phần thân, còn anh, anh ăn… phần đầu cá.

12. Anh làm hỏng cái tai nghe của em, anh liền mua 1 cái mới đền ngay. Còn em làm mất chiếc xe đạp của anh, một lời xin lỗi cũng không có.

13. Lần em ốm, anh gầy mất 2 kg. Lần anh ốm, em béo lên 2 kg (Em đến phòng chăm sóc anh, ăn hết mọi đồ ăn, hoa quả, bánh kẹo của anh).

14. Anh không chê em thấp, thế mà em lại chê anh cao.

15. Mẹ anh đối xử tốt với em như vậy, còn em một chút cũng không.

16. Lần đó đi xem rock ngoài trời, em cưỡi lên vai anh rất thích thú, gào thét cả buổi, còn anh bị ép nặng suýt rơi lệ.

17. Con chó cảnh nhà anh đẻ, anh chọn con đẹp nhất mang đến cho em. Em lại tặng anh con cá vàng em nuôi gần chết, hại anh chăm sóc thêm 2 ngày nữa phải đem chôn nó.

18. Trước khi quen em, anh ngủ 8 tiếng. Quen em rồi giấc ngủ của anh chỉ còn 4 tiếng.

19. Trước khi quen em anh không bao giờ chờ ai quá 5 phút. Quen em rồi anh phải đứng hàng tiếng đồng hồ.

20. Trước khi quen em, anh ngày nào cũng ăn sáng. Sau khi quen em, anh chỉ ăn mỗi buổi tối.

21. Khi em về nhà gặp mẹ anh, anh ngồi cạnh để đỡ lời. Gặp mẹ em, em chạy đi nói điện thoại.

22. Anh viết mail cho em bằng những lời lẽ ngọt ngào nhất. Nhận mail của em, toàn những lời trách móc.

23. Chat với em, anh chat mỗi mình em, còn em chat với hàng chục người.

24. Viết thư tay cho em, viết nhiều trang. Nhận thư tay của em, “Hòn VọngThư”.

25. Anh lỡ hẹn, anh xin lỗi đến vài ngày sau. Em lỡ hẹn, em nhoẻn cười lấy lệ rồi quên béng.

yeu-a-632471-1371399037_500x0.jpg

26. Ra đường gặp cướp, anh đánh nó, em bảo anh côn đồ. Anh không đánh nó, em bảo anh hèn nhát.

27. Đi xe anh đi cẩn thận, em bảo anh kém thế. Đi nhanh, em bảo anh đi ẩu.

28. Ngày lễ tết, các anh chị của em đều có quà. Còn anh chị anh thì anh chẳng mua cho thứ gì.

29. Em lấy lược ra chải ngay ngã tư, còn anh mới vuốt tóc một cái, em bảo anh điệu thế.

30. Đi xem phim, em thấy chán, em đòi về. Anh thấy chán, vẫn phải cắn răng ngồi xem hết phim.

31. Đi uống coffee, em ngồi uống cái soạt rồi đứng dậy. Anh bất chấp mọi người cười, cũng uống cái soạt rồi đưa em về.

32. Đi chơi với em, thấy em buồn, anh cố gắng làm cho em vui. Thấy anh buồn, kệ anh.

33. Quà em tặng anh, anh để rất trân trọng. Quà anh tặng em, em vứt lung tung trong nhà.

34. Anh đứng trước trường đợi em, em bảo anh giám sát em. Anh ngồi ở nhà không đi nữa, em bảo anh không quan tâm đến em.

35. Em bảo anh về đến nhà gọi cho em, anh gọi ngay. Anh bảo em về nhá máy cho anh, em bảo anh khắt khe.

36. Em tặng anh cái gối bé xíu, anh ôm ấp mỗi khi ngủ. Anh tặng em cái gối ôm, em để gác chân.

37. Em tặng anh chậu cây, nó tươi tốt sau mấy ngày. Anh mua cho em đủ lọai cây kiểng, chúng được chôn cất vài tuần sau đó.

38. Anh nói nhiều, em bảo anh lắm mồm. Anh nói ít, em lại bảo anh ít nói.

39. Cá độ với nhau, anh thua, em bắt anh thực hiện bằng được. Em thua, em viện đủ lý do để không thực hiện.

40. Những gã nào thích em, em vẫn để kệ họ. Có ai thích anh, anh phải tìm cách xa họ ngay.

41. Em cười với bao nhiêu là con trai, để cho họ một tia hi vọng. Anh chỉ mới có một lần thôi, vớibạn em, em đã bảo anh là Sở Khanh rồi.

42. Anh nhắc em chăm chỉ. Nhắc em mặc áo ấm. Nhắc em không thức khuya, em hỏi : “anh là mẹ em à?”. Nếu anh không nhắc em, em lại bảo:”Anh chả quan tâm gì đến em”.

43. Có gì anh cũng đều muốn kể cho anh nghe, công việc, bạn bè, gia đình, sở thích…Em thì luôn giấu anh, chỉ kể khi anh đã biết gần hết thôi.

44. Những cái bưu thiếp anh làm tặng em, em chê óng chê eo. Những cái thiệp em tặng anh. Hầu hết chỉ là E-card. Anh vẫn giữ lại nó, mặc dù nó đã hết hạn xem được từ lâu rồi.

45. Những gì em viết cho anh, dù chỉ là một tờ giấy nháp, anh vẫn giữ trong cái hộp. Những gì anh viết cho em, đều tự đáy lòng anh, em đọc rồi em chê chữ anh xấu.

46. Bạn trai của em, chẳng bao giờ em giới thiệu với anh. Bạn gái của anh, em đòi biết hết.

47. Anh biết hết những người bạn của em, giúp đỡ họ nếu có thể. Em chẳng nhớ tên bạn của anh, cho dù nó là bạn thân của anh đi nữa.

48. Trước khi quen em, anh chẳng mấy khi ra khỏi nhà. Đến mức mà mẹ anh cũng ngạc nhiên. Sau khi quen em, cứ mỗi lần anh định đi đâu chơi. Anh sẽ có đủ lý do để ra khỏi nhà và cũng chỉ muốn có em đi cùng.

49. Trước khi quen em, anh muốn mình thật là nổi trội, được nhiều cô gái ngưỡng mộ. Sau khi quen em, anh phải thật bình dị và chỉ cần mỗi mình em thôi.

50. Em đòi anh hiểu em, thế mà em chẳng hiểu anh gì hết.

Sao anh vẫn yêu em nhỉ? Yêu rất nhiều nữa là khác!!!

Sưu tầm

Nhớ rừng

(Lời con Hổ ở vườn Bách thú,
Tặng Nguyễn Tường Tam)

Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt,
Ta nằm dài, trông ngày tháng dần qua.
Khinh lũ người kia ngạo mạn, ngẩn ngơ,
Giương mắt bé diễu oai linh rừng thẳm,
Nay sa cơ, bị nhục nhằn tù hãm,
Để làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi.
Chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi,
Với cặp báo chuồng bên vô tư lự.

Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ,
Thủa tung hoành hống hách những ngày xưa.
Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già,
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi,
Với khi thét khúc trường ca dữ dội,
Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng,
Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng,
Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc.
Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc,
Là khiến cho mọi vật đều im hơi,
Ta biết ta chúa tể của muôn loài
Giữa chốn thảo hoa không tên, không tuổi.

Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối,
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?
Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn,
Ta lặng ngắm giang san ta đổi mới?
Đâu những bình minh cây xanh nắng gội,
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?
Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng.
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt,
Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật?
– Than ôi! thời oanh liệt nay còn đâu?

Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu,
Ghét những cảnh không đời nào thay đổi,
Những cảnh sửa sang, tầm thường, giả dối:
Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng;
Giải nước đen giả suối, chẳng thông dòng
Len dưới nách những mô gò thấp kém;
Dăm vừng lá hiền lành không bí hiểm,
Cũng học đòi bắt chước vẻ hoang vu
Của chốn ngàn năm cao cả âm u.

Hỡi oai linh, cảnh nước non hùng vĩ!
Là nơi giống hùm thiêng ta ngự trị.
Nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa
Nơi ta không còn được thấy bao giờ
Có biết chăng trong những ngày ngao ngán,
Ta đương theo giấc mộng ngàn to lớn
Để hồn ta phảng phất được gần ngươi,
– Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!

(Thế Lữ – 1936)

Sơn Tinh, Thủy Tinh

Sơn Tinh, Thủy Tinh
Nguyễn Nhược Pháp

Ngày xưa, khi rừng mây u ám
Sông núi còn vàng um tiếng thần,
Con vua Hùng Vương thứ mười tám,
Mỵ Nương xinh như tiên trên trần…

Tóc xanh viền má hây hây đỏ,
Miệng nàng bé thắm như san hô,
Tay ngà trắng nõn, hai chân nhỏ:
Mê nàng, bao nhiêu người làm thơ.

Hùng Vương thường nhìn con yêu quá,
Chắp tay ngẩng lên trời tạ ân;
Rồi cười bảo xứng ngôi phò mã,
Trừ có ai ngang vì thần nhân.

Hay đâu thần tiên đi lấy vợ!
Sơn Tinh, Thủy Tinh lòng tơ vương,
Không quản rừng cao, sông cách trở,
Cùng đến Phong Châu xin Mỵ Nương.

Sơn Tinh có một mắt ở trán,
Thủy inh râu ria quăn xanh rì.
Một thần phi bạch hổ trên cạn,
Một thần cưỡi lưng rồng uy nghi.

Hai thần bên cửa thành thi lễ,
Hùng Vương âu yếm nhìn con yêu.
Nhưng có một nàng mà hai rể,
Vua cho rằng thế cũng hơi nhiều!

Thủy Tinh khoe thần có phép lạ,
Dứt lời, tay hất chòm râu xanh,
Bắt quyết hò mây to nước cả,
Dậm chân rung khắp làng gần quanh.

Ào ào mưa đổ xuống như thác,
Cây xiêu, cầu gẫy, nước hò reo,
Lăn, cuốn, gầm, lay, tung sóng bạc,
Bò, lợn, và cột nhà trôi theo.

Mỵ Nương ôm Hùng Vương kinh hãi.
Sơn Tinh cười, xin nàng đừng lo,
Vung tay niệm chú: Núi từng dải,
Nhà lớn, đồi con lổm ngổm bò

Chạy mưa. Vua tùy con kén chọn.
Mỵ Nương khép nép như cành hoa:
“Con đây phận đào tơ bé mọn,
Nhân duyên cúi để quyền mẹ cha!”

Vua nghĩ lâu hơn bàn việc nước,
Rồi bảo mai lửa hồng nhuốm sương,
Lễ vật thần nào mang đến trước,
Vui lòng vua gả nàng Mỵ Nương.

Bình minh má ửng đào phơn phớt,
Ngọc đỏ rung trên đầu lá xanh.
Ngọn liễu chim vàng ca thánh thót,
Ngự giá Hùng Vương lên mặt thành.

Mỵ Nương bên lầu son tựa cửa,
Rèm ngọc lơ thơ phủ áo hồng.
Cánh nhạn long lanh vờn ánh lửa,
Mê nàng, chim ngẩn lưng trời đông.

Rừng xanh thả mây đào man mác,
Sơn Tinh ngồi bạch hổ đi đầu
Mình phủ áo bào hồng ngọc dát,
Tay ghì cương hổ, tay cầm lau.

Theo sau năm chục con voi xám
Hục hặc, lưng cong phủ gấm điều,
Tải bạc, kim cương, vàng lấp loáng,
Sừng tê, ngà voi và sừng hươu.

Hùng Vương trên mặt thành liễu rủ,
Hớn hở thần trông, thoáng nụ cười.
Thần suốt đêm sao dài không ngủ,
Mày ngài, mắt phượng vẫn còn tươi.

Sơn Tinh đến lạy chào bên cửa,
Vua thân ngự đón nàng Mỵ Nương.
Lầu son nàng ngoái trông lần lữa,
Mi xanh lệ ngọc mờ hơi sương.

Quỳ lạy cha già lên kiệu bạc,
Thương người, thương cảnh xót lòng đau.
Nhìn quanh, khói tỏa buồn man mác,
Nàng kêu: “Phụ Vương ôi! Phong Châu!”

Kiệu nhỏ đưa nàng đi thoăn thoắt,
Hùng Vương mơ vịn tay bờ thành.
Trông bụi hồng tuôn xa, xa lắc,
Mắt nhòa lệ ngọc ngấn đầm quanh…

Thoảng gió vù vù như gió bể,
Thủy Tinh ngồi trên lưng rồng vàng.
Yên gấm tung dài bay đỏ chóe,
Mình khoác bào xanh da trời quang.

Theo sau cua đỏ và tôm cá,
Chia đội năm mươi hòm ngọc trai,
Khập khiễng bò lê trên đất lạ,
Trước thành tấp tểnh đi hành hai.

Hùng Vương mặt rồng chau ủ rũ,
Chân trời còn phảng bóng người yêu,
Thủy Tinh thúc rồng đau kêu rú,
Vừ uất vì thương, vừa bởi kiêu.

Co hết gân nghiến răng, thần quát:
“Giết! Giết Sơn Tinh hả hờn ta!”
Tức thời nước sủi reo như thác,
Tôm cá quăng ngọc trai mà hoa.

Sơn Tinh đang kèm theo sau kiệu,
Áo bào phơ phất nụ cười bay.
(Vui nhỉ mê ai xinh mới hiểu)
Thần trông kiệu nhỏ hồn thêm say.

Choàng nghe sóng vỗ reo như sấm,
Bạch hổ dừng chân, lùi, vểnh tai.
Mỵ Nương tung bức rèm đỏ thắm,
Sơn Tinh trông thấy càng dương oai.

Sóng cả gầm reo lăn như chớp,
Thủy Tinh cưỡi lưng rồng hung hăng.
Cá voi quác mồm to muốn đớp,
Cá mập quẫy đuôi cuồng nhe răng.

Càng cua lởm chởm giơ như mác;
Tôm kềnh chạy quắp đuôi xôn xao.
Sơn Tinh hiểu thần ghen, tức khắc
Niệm chú, đất nẩy vù lên cao.

Hoa tay thần vẫy hùm, voi, báo.
Đuôi quắp, nhe nanh, giơ vuốt đồng,
Đạp long đất núi, gầm xông xáo,
Máu vọt phì reo muôn ngấn hồng.

Mây đen hăm hở bay mù mịt,
Sấm ran, sét động nổ lòe xanh.
Tôm cá xưa nay im thin thít,
Mở quác mồm to kêu thất thanh.

Mỵ Nương kinh hãi ngồi trong kiệu,
Bỗng chợt nàng kêu mắt lệ nhòa.
(Giọng kiêu hay buồn không ai hiểu,
Nhưng thật dễ thương): “Ô! vì ta!”

Thủy Tinh năm năm dâng nước bể,
Đục núi hò reo đòi Mỵ Nương.
Trần gian đâu có người dai thế,
Cũng bởi thần yêu nên khác thường!

[ 4-1933 ]

Nhận diện đạo đức con người qua tục ngữ và thơ ca dân gian

Nhận diện đạo đức con người qua tục ngữ và thơ ca dân gian

Đạo đức của con người luôn được mọi thời từ cổ tới kim đề cập tới. Ngày nay, đây cũng luôn là một vấn đề “nóng”. Để giúp mọi người thẩm định, đánh giá một cách chính xác về đạo đức con người, người viết xin được giới thiệu một vài kinh nghiệm của ông cha ta xưa xung quanh vấn đề này.

Trong thực tế và qua thực tế cuộc sống, hẳn bạn đã từng được mắt thấy, tai nghe những câu chuyện về những con người mà dân gian thường nói là “miệng nam mô mà bụng bồ dao găm”.

Nhìn vẻ ngoài của những con người này thật bóng bẩy, hào nhoáng; họ nói rất dẻo, hót rất hay, nên nhiều người cứ lầm tưởng rằng, đó chính là “vàng mười đích thực chứ không phải là thau”.

Nhưng đến khi có một sự biến nào đó thì, than ôi, “cháy nhà ra mặt chuột”, đó đích thị là “rắn độc cuộn khúc tưởng ra rồng vàng”.

Không đến nỗi như hạng người đã đề cập ở trên, nhưng trong cuộc sống cũng không thiếu những con người khi mới chân ướt chân ráo về làm việc ở cơ quan, đơn vị thì tỏ ra rất sốt sắng, nhiệt tình; họ thường tâng bốc bợ đợ những người “bề trên”; nhưng hẳn là “Đường dài hay sức ngựa, nước loạn biết tôi ngay”,Gặp cơn đại loạn mới hay trung thần”. Và quả là, được một thời gian họ liền bị lộ diện chân dung ngay- họ gây bè, kéo cánh, đấu đá lung tung dối trên, lừa dưới làm cho nội bộ cơ quan đơn vị rối ren.

Và chính theo các tác giả của tục ngữ Việt Nam thì trong những thời điểm hòa bình, yên vui, phẩm chất đạo đức của con người ít được bộc lộ. Chỉ trong hoàn cảnh khó khăn, hoạn nạn thì “chất đỏ” và “vết đen” của con người mới được kiểm chứng cụ thể. Không những thế, hàng loạt những công việc, hành động cụ thể khác của con người được tục ngữ, thơ ca dân gian Việt Nam lấy làm tiêu chí kiểm định đạo đức.

Nhận xét khái quát này thể hiện qua triết luận: “Xem trong bếp, biết nết đàn bà”. Câu ấy có nội dung, ý nghĩa vào loại đơn giản, dễ hiểu nhất. Tác giả của nó muốn diễn đạt: cứ trông trong bếp, nếu thấy gọn gàng, ngăn nắp, sạch sẽ thì biết nết lao động, cũng như biết đức hạnh của bà (hoặc chị, cô) chủ là tốt; ngược lại, nhìn thấy bếp bừa bãi, lộn xộn, bẩn thỉu thì biết ngay là chủ nhân của nhà bếp đó thuộc loại người luộm thuộm, phẩm chất có vấn đề và phải được, xem xét.

Bài ca dao ngụ ngôn dưới đây cũng lấy việc làm, hành động là tiêu chí kiểm định đạo đức: “Cái Cò, cái Vạc, cái Nông / Sao mày dẫm lúa nhà ông hỡi Cò/ Không không tôi đứng trên bờ/ Mẹ con cái Vạc đổ ngờ cho tôi / Chẳng tin thì ông đi đôi / Mẹ con nhà nó còn ngồi đây kia”. Mẹ con nhà Vạc là kẻ ác, dẫm lúa của người ta lại đổ lỗi đó cho Cò. Những kẻ nhẫn tâm như mẹ con nhà Vạc trong bài ca dao này bị người đời chê trách, lên án gọi là kẻ “gắp lửa bỏ tay người“. Và thời nay vẫn còn đầy rấy những kẻ “gắp lửa bỏ tay người” như vậy. Đáng lên án thay.

Một khía cạnh khác mà các tác giả của tục ngữ, thơ ca dân gian thường đề cập đến là đạo đức con người phải được thẩm định, đánh giá qua thực tế, từ thực tế và trong thực tế : “Lửa thử vàng, gian nan thử sức”, hay “Có gió rung mới biết tùng bách cứng, có ngọn lửa hừng mới biết thức vàng cao”. Vâng, dù xưa hay nay; dù là người phương Đông hay người phương Tây, đạo đức của con người chỉ bộc lộ và bộc lộ một cách rõ nét nhất qua những gì mà người đó đã hành động, đã làm việc; bởi trên đời này luôn là thế “mọi lí thuyết đều là màu xám, còn cây đời mãi mãi xanh tươi”.

Chuyện xưa bên Tàu kể rằng, Trang Tử- một triết gia, nhà tư tưởng lừng danh, đã từng tự mình làm một cuộc thử nghiệm là giả chết để đo sự đoan trang, đức hạnh của người vợ. Kết quả là, ông đã xác minh được phẩm hạnh của người vợ trẻ đẹp – một kẻ miệng nói thủy chung và bao lời hay, ý đẹp về phẩm chất đạo đức, nhưng trên thực tế đã có hành động ngược lại. Thời nay, nếu ai đó bắt chước Trang Tử “giả chết”, thì sẽ nhận ngay được chân giá trị của câu tục ngữ mang đậm tính triết lí dân gian “Chết giả mới biết dạ anh em”– một triết lí mang đậm giá trị đạo đức gia đình, xã hội.

Và, không hiểu tôi có phải là người hoài cổ hay không mà sao lúc nào tôi cũng có ý nghĩ rằng, các cô thiếu nữ xưa, dù là hạng người nào, cũng còn sót lại trong mình những chân giá trị đạo đức đáng quí. Không như nhiều cô gái ngày nay, cứ thấy bất cứ chàng trai nào, dù đã có vợ rồi, tán tỉnh- nhất là những người có tiền, quyền và chức, là họ sẵn sàng đổ vào “không cho nó thoát” mà chẳng biết suy luận về chân giá trị đạo đức của “nó” ra sao.

Còn các cô gái xưa, họ khác thế lắm. Khi biết một chằng trai đã có vợ, do si tình và giả dối, đã đến “tán tỉnh” mình, bằng cảm nhận trực quan và sự suy luận thông minh, họ đã lên tiếng vạch mặt, chỉ tên rằng : “Vợ anh như trúc, như thông/ Như hoa mới nở, như rồng mới thêu/ Anh còn lưỡng lự trăm chiều/ Gan ai là sắt dám gieo mình vào/ Vợ chồng như ngọc, như ngà. Anh còn ruồng rẫy nữa là thân em”; “Vợ anh như bát cơm xôi/ Anh còn chẳng chuộng nữa tôi cơm hàng/ Vợ anh tay bạc tay vàng/ Anh còn chẳng chuộng nữa nàng tay không…”.

Vẫn biết rằng, nhận diện đạo đức của mỗi một con người cần phải có một quá trình. Không thể vội vàng đánh giá về người mà mình vừa mới tiếp xúc, nhất là sự đánh giá về đạo đức của họ. Về vấn đề này, dân gia cũng đã từng răn dạy rằng : “Thức lâu mới biết đêm dài, ở lâu mới biết con người có nhân”.

Tuy nhiên, phải công nhận rằng, nhận diện đạo đức, đánh giá về đạo đức của mỗi một con người quả là một vấn đề rất khó, bởi phẩm chất đạo đức của con người- do bản chất của nó, vốn là cái sâu sắc, ẩn kín trong mỗi cá nhân nên trong rất nhiều trường hợp không thể kiểm định được một cách cụ thể. Thực vậy, về vấn đề này, tục ngữ Việt Nam có những triết lý: “Lòng sông lòng bể dễ dò, ai từng bẻ thước mà đo lòng người“; “Sông sâu, sào ngắn khôn dò, người khôn ít nói khó đo tấc lòng”, hoặc “Hoạ hổ hoạ bì, nan hoạ cất / Tri nhân tri diện, bất tri tâm” (nghĩa là: Vẽ được da hổ, khó vẽ được xương hổ/ Biết mặt người, không biết được lòng người).

Đặc biệt, đối với những người ma mãnh, tinh ranh, quỷ quyệt, độc ác…, tục ngữ Việt Nam cho rằng, rất khó có thể kiểm tra được đạo đức của họ. Những câu tục ngữ: “Dò sông dò bể dò nguồn, biết sao được bụng lái buôn mà dò”; “Sông sâu còn có kẻ dò, lòng người nham hiểm ai đo cho cùng”; “Sông sâu còn thể bắc cầu, lòng người nham hiểm biết đâu mà dò” đã diễn tả sự khó khăn không dễ vượt qua đó.

Và có lẽ, đây cũng là lời cảnh báo cho loài người trong đời sống hiện tại và cả trong tương lai rằng : Hãy cảnh giác ! Bởi những kẻ vô đạo đức nhưng lại biết che đậy thường không ngại làm những việc mà có thể gây cho người lương thiện không ít khó khăn, trở ngại; thậm chí, cả sự tổn thất, mất mát lớn nữa.

Nhưng, tôi cũng lại tin rằng, mãi muôn đời là vậy : “Cây xanh thì lá cũng xanh, cha mẹ hiền lành để đức cho con”- một triết lí chứa đựng ở nội dung câu khẩu hiệu thời hiện đại : “Ông bà, cha mẹ mẫu mực; con cháu thảo hiền”… Vâng, những cái gì từ nhân dân mà ra, do sức dân sáng tạo thì nó sẽ vô cùng chân chất, giản dị nhưng cũng thật vô cùng quí giá và sâu sắc. Hơn thế nữa, nó còn mang ý nghĩa giáo dục, hướng con người sống lương thiện hơn, chân thành hơn và tốt đẹp hơn. Tục ngữ, thơ ca dân gian Việt Nam là một loại hình như thế. Và vì vậy, nó muôn đời lấp lánh sáng, lung linh …

KHÁNH YÊN (TẠP CHÍ VĂN HÓA NGHỆ AN)

Thủy lôi và trận Bạch Đằng ở Biển Đông

Thủy lôi là loại vũ khí đầu tiên được sử dụng, khi xuất hiện các loại tầu hiện đại, trong đó đặc biệt là tàu ngầm. Dần dần, thủy lôi nhường vị trí đầu bảng cho ngư lôi và tên lửa chống tầu. Nhưng thủy lôi vẫn giữ được khả năng chiến đấu hiệu quả cho đến ngày nay.

Điều này đặc biệt với những nước có tiềm lực kinh tế – quân sự hạn chế, nhưng có vùng biển dài, rộng và có nhiều khả năng bị đe dọa quân sự từ hướng biển như khu vực Biển Đông của Việt Nam. Việc sử dụng các trận địa thủy ngư lôi đã có thời gian sản xuất từ lâu (từ 1964) có trang bị bổ sung những thiết bị dò tìm mục tiêu hiện đại, hệ thống nhận biết địch ta, thiết bị có khả năng tự kích hoạt hoặc kích hoạt theo tình huống sẽ là phương thức bảo vệ phi đối xứng hiệu quả nhất chống lại các lực lượng hải quân hiện đại. Bảo vệ thành công thềm lục địa, biển đảo.

Đối với các lực lượng hải quân có trang bị tàu ngầm, thông thường sử dụng các loại thủy ngư lôi như: Thủy lôi neo; Thủy lôi đáy; Thủy lôi phóng nổi trong vùng nước; Thủy lôi – ngư lôi ; Thủy lôi – tên lửa.

Thủy lôi neo PM-1 được sử dụng để chống tàu ngầm, được lắp đặt trong ống phóng ngư lôi 533mm (hai quả ) ở độ sâu đến 400m, độ chìm của thủy lôi là 10 – 25 m. Khối lượng nổ là 230 kg. bán kích cảm biến âm thanh bộ phận kích nổ là 15 – 20 m. Loại mìn neo PM-2 được biên chế vào trong hải quân từ năm 1965 sử dụng ăng ten cũng tương tự như PM-1, nhưng có khả năng tấn công cả tàu nổi và tàu ngầm ở độ sâu đến 900m.

Thủy lôi neo PM-1 và PM-2″

Loại mìn thủy lôi đáy MDM-6 được sử dụng để chống các tàu nổi và tàu ngầm. Thủy lôi được chế tạo thiết bị kích nổ phi tiếp xúc với 3 kênh cảm biến âm thanh, cảm biến từ trường và cảm biến thủy lực. Thủy lôi có trang bị thiết bị đặt thời gian trực chiến đấu, thiết bị phóng đại tín hiệu và thiết bị tự hủy. Đường kính ống phóng là 533m. Độ sâu đặt thủy lôi đến 120m.

Thủy lôi đáy MDM-6″

Thủy lôi tự chuyển động dưới đáy biển MDS được sử dụng để tiêu diệt các tàu nổi và tàu ngầm đối phương. Đặt rải thủy lôi MDS được tiến hành phóng ra từ ống phóng ngư lôi 533mm từ tầu ngầm. Thủy lôi tự cơ động đến vị trí đặt mìn bằng động cơ đẩy của ngư lôi. Thủy lôi được kích nổ khi mục tiêu tiến đến khoảng cách gần, kích hoạt thiết bị gây nổ từ trường hoặc sóng âm. Khu vực nguy hiểm có thể lên đến 50m. Thủy lôi có thể sử dụng để phong tỏa hải cảng đối phương, bí mật đặt trên đường hàng hải của địch hoặc bảo vệ bờ biển, khu vực biển mooyj cách bí mật. Độ sâu đặt thủy lôi thấp nhất là 8m.

Thủy lôi tự cơ động đáy MDS

Thủy lôi neo và phóng mìn phản lực nổi RM-2 được sử dụng để tiêu diệt tàu nổi và tàu ngầm. Sử dụng ống phóng ngư lôi 533mm của tàu ngầm. Mìn bao gồm thân mìn và thiết bị neo. Trong thân mìn là động cơ phản lực nhiên liệu rắn. Thủy lôi được phóng về phía mục tiêu sau khi thiết bị kích nổ được kích hoạt bằng các trường vật lý phát ra từ tầu mục tiêu. Đồng thời có thiết bị kích nổ phi tiếp xúc khi chạm vào khu vực trường lực của mục tiêu. Đồng thời thủy lôi cũng có đầu nổ tiếp xúc thân mìn.

Thủy lôi phản lực RM-2

Thủy lôi chống tàu ngầm PMT-1 được biên chế vào Hải quân Xô viết vào năm 1972. Được chế tạo bao gồm thủy lôi có neo và ngư lôi loại nhỏ MGT-1 đường kính 406mm. Loại thủy lôi neo phản lực PMR-2 là tổ hợp thủy lôi neo với động cơ phản lực dưới nước. Bao gồm có ống phóng, tên lửa đẩy và neo. Động cơ phản lực hoạt động đẩy thủy lôi về phía mục tiêu khi thiết bị dò tìm mục tiêu đã xác định được mục tiêu dựa vào các trường vật lý xuất hiện ở tàu ngầm. Thủy lôi kích nổ đầu đạn bởi thiết bị kích nổ tiếp xúc hoặc kích nổ không tiếp xúc.

Thủy lôi chống tầu ngầm PMT-1

Thủy lôi thềm lục địa MSM được sử dụng để chống lại các loại tầu nổi và tầu ngầm trong khu vực ven biển. Thủy lôi là tổ hợp mìn đáy biển với động cơ phản lực tên lửa. Thủy lôi được đặt ngầm trong tư thế thẳng đứng. Thiết bị dò tìm sóng âm cho phép phát hiện và định hướng mục tiêu. Tên lửa đẩy phóng thủy lôi từ thân mìn. Thủy lôi được trang bị thiết bị kích nổ sóng âm phi tiếp xúc. Cho phép tấn công hiệu quả mục tiêu trong khu vực nguy hiểm. Đường kính thủy lôi là 533mm.

Không quá tốn kém, nhưng rất hiệu quả, việc phong tỏa một khu vực hoặc cả một vùng biển rộng lớn có thể tiến hành bằng cách rải thủy lôi, thiết lập những trận địa ngầm bí mật dưới lòng biển mai phục quân thù khi chúng xâm phạm biên giới hải đảo của tổ quốc. Với trí tuệ Việt, những vũ khí không thuộc loại công nghệ cao như thủy lôi vẫn có thể làm nên những trận Bạch Đằng Giang lừng lẫy trên Biển Đông nếu kẻ địch dám manh động, làm liều.

TRỊNH THÁI BẰNG (TIỀN PHONG)

Chính sách biển và hải quân Việt Nam dưới góc nhìn của người Nga

Về truyền thống, Việt Nam xưa nay vốn dĩ vẫn là quốc gia hải quân yếu và sự yếu kém này đã không chỉ một lần ảnh hưởng tai hại đối với an ninh quốc gia của Việt Nam.

Bài viết của Prokhor Yurevich Tebin, nghiên cứu sinh Viện Kinh tế thế giới và Quan hệ quốc tế, Viện Hàn lâm khoa học Nga.

Chiến hạm HQ-012 Lý Thái Tổ huấn luyện trên biển

Đông Nam Á là một trong những khu vực phát triển năng động nhất trong những năm gần đây. Có thể tự tin nói đến sự xuất hiện một trung tâm địa-chính trị mới của thế giới. Điều đó được quy định bởi sự tập trung tại khu vực này các tuyến giao thương hàng hải chủ chốt, các nguồn tài nguyên, dân số 600 triệu người và tiềm năng xung đột cao.

Tiềm năng xung đột được quy định một mặt bởi sự hiện diện của một số lượng đáng kể các mối đe dọa phi nhà nước (khủng bố quốc tế, cướp biển, buôn bán ma túy) và nội bộ quốc gia (bất ổn chính trị, các xung đột sắc tộc, tôn giáo chưa được giải quyết), mặt khác bởi sự đối kháng giữa các quốc gia, kể cả giữa một số quốc gia trong khu vực, lẫn các cường quốc ngoài khu vực.

Yếu tố chủ chốt của nền chính trị khu vực ở Đông Nam Á là sự gia tăng mạnh vai trò của đại dương thế giới. Eo biển Malacca và Biển Đông ở mức độ đáng kể bảo đảm cho sự tăng trưởng kinh tế trong khu vực, nhưng chúng cũng tạo ra phần lớn các nguy cơ đối với an ninh quốc gia và quốc tế. Chính các tuyến đường biển quy định vai trò lớn mà các cường quốc ngoài khu vực là Ấn Độ, Nhật Bản và Mỹ đang có ở đây. Không có gì ngạc nhiên khi các quốc gia trong khu vực đều “đã quay ra hướng biển” và dành sự chú ý ngày càng lớn cho chính sách biển.

Một trong các quốc gia then chốt ở khu vực lấy chính sách biển làm chỗ dựa là Việt Nam. Để phát triển kinh tế và bảo đảm an ninh quốc gia của một nước 90 triệu dân, việc phát triển tiềm năng biển nói chung và hải quân nói riêng sẽ là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất trong tương lai gần. Hơn nữa, sự phát triển sức mạnh hải quân của Việt Nam đã trở thành yếu tố quan trọng trong “ván cờ lớn” của ba gã khổng lồ Trung Quốc, Ấn Độ và Mỹ.

Hai tàu chiến uy lực nhất của Hải quân Việt Nam hiện nay, HQ-011 Đinh Tiên Hoàng và HQ-012 Lý Thái Tổ huấn luyện trên biển

Chính sách biển

Về truyền thống, Việt Nam xưa nay vốn dĩ vẫn là quốc gia hải quân yếu và sự yếu kém này đã không chỉ một lần ảnh hưởng tai hại đối với an ninh quốc gia của Việt Nam. Thời chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam, ưu thế trên biển hiển nhiên đã cho phép Mỹ tự do tiến hành chuyển quân và tấn công bờ biển miền Bắc Việt Nam. Năm 1974, sau một cuộc va chạm nhỏ giữa các tàu chiến của Việt Nam cộng hòa và Trung Quốc, Trung Quốc đã thiết lập quyền kiểm soát đối với quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam.

Trong cuộc chiến tranh Trung-Việt năm 1979, Việt Nam đã thể hiện được sức mạnh của lực lượng vũ trang của mình ở trên bộ và sự yếu kém trên biển, điều đó đã được bù đắp bởi sự hiện diện của một binh đoàn tàu chiến lớn của Liên Xô. Các chiến hạm Liên Xô đã bảo đảm nhiệm vụ bảo vệ bờ biển Việt Nam, giao thông vận tải của Việt Nam, cũng như kiềm chế hạm đội Trung Quốc. Các tàu Liên Xô cũng đã đóng vai trò lớn trong việc ngăn chặn Mỹ can thiệp vào cuộc chiến khi Mỹ duy trì sự hiện diện của cụm tàu sân bay do tàu sân bay Constellation dẫn đầu ở gần bờ biển Việt Nam trong 3 tháng.

Một trong những kết quả của cuộc chiến Trung-Việt là việc Hà Nội và Moskva ký kết hiệp định thành lập trạm bảo đảm vật chất-kỹ thuật của Hải quân Liên Xô ở Cam Ranh, căn cứ hải quân lớn nhất của Liên Xô ở nước ngoài. Tuy nhiên, năm 1988, hạm đội Liên Xô đã không thể trợ giúp Việt Nam trong cuộc va chạm mới giữa các tàu chiến Việt Nam và Trung Quốc ở bãi đá Gạc Ma, trong đó Việt Nam lại thất bại và Trung Quốc kiểm soát được một bộ phận các đảo của quần đảo Trường Sa.

Sau khi Liên Xô sụp đổ, Việt Nam đã có cách nhìn khác về sự cần thiết phát triển chính sách biển. Tấm gương điển hình đối với Việt Nam là trường hợp Singapore, quốc gia đã từ một mảnh đất nhỏ ở cực nam eo biển Malacca trở thành một trong những nước dẫn đầu thế giới về GDP trên đầu người nhờ phát triển hạ tầng cảng biển và thương mại đường biển.

Khác với Singapore, Trung Quốc, Thái Lan và Malaysia, Việt Nam có hạ tầng cảng biển cực kỳ yếu. Ba hải cảng lớn nhất của Việt Nam là Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng và Đà Nẵng thua xa Hongkong, Tanjung Pelepas và Port Klang của Malaysia, Laem Chabang của Thái Lan về doanh thu và chất lượng dịch vụ. Sự tụt hậu này có tác động tiêu cực tới khả năng cạnh tranh của kinh tế Việt Nam và cản trở việc phát triển khai thác dầu mỏ và các tài nguyên khác.

Năm 1999, Chính phủ Việt Nam đã công bố chương trình 10 năm phát triển hạ tầng cảng biển và nó đã chỉ được thực hiện một phần. Mặc dù vậy, Việt Nam đã tìm được một đồng minh chiến lược là đối tác lâu đời Ấn Độ, quốc gia từ thập niên 1990 đã phát triển học thuyết “Hướng đông” và đang muốn bám trụ ở Đông Nam Á. Mùa thu năm 2011, tập đoàn dầu khí Videsh của Ấn Độ và PetroVietnam của Việt Nam đã ký hợp đồng đối tác 3 năm trong lĩnh vực thăm dò, khai thác các mỏ dầu khí ở Biển Đông.

Việc củng cố quan hệ giữa Hà Nội và New Delhi đã làm cho quan hệ Việt-Trung căng thẳng hơn nữa. Tờ báo China Energy News của Trung Quốc đã đăng bài kêu gọi Ấn Độ và Việt Nam hủy hợp đồng dầu khí này và đe dọa không cho thực hiện hợp đồng,

Mặc dù cả hai nước đều có chung ý thức hệ cộng sản, Trung Quốc vẫn là mối đe dọa chủ yếu đối với an ninh quốc gia của Việt Nam. Sau hơn 30 năm đối đầu, sự căng thẳng trong quan hệ giữa Bắc Kinh và Hà Nội ở Biển Đông đang gia tăng. Các yêu sách chủ quyền của Trung Quốc đối với phần lớn Biển Đông, các quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa khiến cho Việt Nam ngày càng bất bình.

Ấn Độ cảm thấy ngày càng tự tin ở Đông Nam Á và vì Việt Nam họ sẵn sàng chấp nhận sự gia tăng căng thẳng nhất định trong quan hệ với Trung Quốc.

Một đối tác khác của Việt Nam trong cuộc đối đầu với các tham vọng của Trung Quốc trong khu vực là Mỹ. Sau khi Liên Xô tan vỡ, Hà Nội và Washington đã chủ trương vượt qua sự thù địch do chiến tranh để lại. Năm 2000, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ đã thăm Việt Nam lần đầu tiên sau chiến tranh. Năm 2010 và 2011, Mỹ và Việt Nam đã tiến hành đợt huấn luyện hải quân chung mà lập tức bị giới lãnh đạo quân sự Trung Quốc gọi là “không phù hợp”.

Xây dựng hải quân

Ban lãnh đạo Việt Nam nhận thức được rằng, Việt Nam không thể tham gia cuộc chạy đua vũ khí hải quân thực sự với Trung Quốc. Tuy nhiên, kinh nghiệm các cuộc xung đột trước đó cho thấy rằng, để bảo vệ các lợi ích quốc gia của mình, Việt Nam phải có tiềm lực hải quân đủ mạnh. Trong những năm đầu 2000, Hà Nội chủ trương xây dựng một hạm đội ven bờ hiện đại và có khả năng chiến đấu cao. Đối tác chính của Việt Nam trong lĩnh vực này là Nga và ở mức độ thấp hơn là Ấn Độ.

Theo cách tiếp cận của Việt Nam, hạm đội là dùng để bảo vệ lãnh thổ ven bờ và vùng đặc quyền kinh tế của mình. Việt Nam không cố gắng thiết lập ưu thế trên biển một khi xảy ra xung đột với Trung Quốc, nhưng dự định có được khả năng gây tổn thất đủ lớn cho đối phương và ngăn chặn Trung Quốc thi hành chính sách fait accompli (việc đã rồi). Đây sẽ là yếu tố kiềm chế quan trọng trong quan hệ Trung-Việt.

Ngoài đối phó với Trung Quốc, hạm đội Việt Nam phải có khả năng đối phó với các mối đe dọa trên biển phi truyền thống (buôn lậu, hải tặc, buôn bán ma túy…), cũng như sẵn sàng cho một cuộc xung đột ít có khả năng xảy ra song không thể loại trừ với một nước Đông Nam Á khác.

Theo các nhiệm vụ chính trị và quân sự được giao, Hải quân Việt Nam trong một thời gian dài thực tế chỉ là “hạm đội muỗi” với toàn tàu nhỏ, nay hướng đến thành lập một hạm đội tàu ngầm hùng mạnh, đóng các frigate hạng nhẹ và corvette hiện đại, cũng như các tàu xuồng trang bị pháo-tên lửa.

Tầm ngắm thông thường

Tàu ngầm Projekt 636 Varshavyanka

Dự án lớn nhất mà Việt Nam đang thực hiện trong lĩnh vực xây dựng hải quân là việc mua sắm từ Nga 6 tàu ngầm thông thường Projekt 636 Kilo.

Hợp đồng này được ký năm 2009, trị giá 1, 8 tỷ USD, tàu ngầm đầu tiên đã được khởi đóng tại Admiralteiskye Verfi ở St. Petersburg vào tháng 8/2010.

Nga cũng sẽ hỗ trợ xây dựng căn cứ tàu ngầm và hạ tầng đi kèm tại Việt Nam. Chi phí xây dựng căn cứ ước 1,5-2,1 tỷ USD.

Các tàu ngầm thông thường hiện đại được trang bị tên lửa chống hạm (các tàu ngầm Việt Nam nhiều khả năng sẽ được trang bị hệ thống tên lửa Club-S), là một trong những chủng loại vũ khí trang bị hải quân tối ưu nhất xét từ giác độ hệ số chi phí/hiệu quả.

Khi cần, Việt Nam sẽ có thể bảo đảm sự hiện diện thường xuyên của một số tàu ngầm ở ngoài khơi, điều này sẽ cho phép trong trường hợp xung đột tranh giành ưu thế cục bộ trên biển của Trung Quốc trong một thời gian nhất định.

Ấn Độ với hải quân sở hữu 10 tàu ngầm thông thường do Nga đóng cũng sẽ giúp đỡ Việt Nam khai thác tàu ngầm Nga và đào tạo các thủy thủ đoàn. Cũng cần lưu ý rằng, Hải quân Việt Nam còn có trong biên chế 2 tàu ngầm siêu nhỏ lớp Yugo mua từ CHDCND Triều Tiên vào năm 1997.

Tác chiến biển xa

Thành phần quan trọng thứ hai của hạm đội đổi mới Việt Nam là các tàu chiến lớp corvette hạng nặng/frigate hạng nhẹ. Năm 2011, Nga đã chuyển giao cho Việt Nam 2 tàu hộ vệ lớp Projekt 11661E Gepard 3.9 đóng tại Nhà máy Zelenodolsk mang tên A.M. Gorky theo thiết kế của Viện thiết kế Zelenodolsk (ZPKB). Hợp đồng này trị giá 350 triệu USD được ký vào năm 2006.

Các chiến hạm này trong biên chế Hải quân Việt Nam được đặt tên lửa HQ-011 Đinh Tiên Hoàng và HQ-012 Lý Thái Tổ, có lượng giãn nước 2.100 tấn và tốc độ tối đa đến 27 hải lý/h. Vũ khí chính của tàu là hệ thống tên lửa chống hạm Uran-E với cơ số đạn gồm 8 quả tên lửa chống hạm Kh-35E.

Chiến hạm HQ-011 Đinh Tiên Hoàng

Sau khi nhận được 2 tàu Gepard đầu tiên, Việt Nam đã chuyển điều khoản phụ của hợp đồng thành hợp đồng cứng, đóng thêm 2 tàu loại này. Khác với 2 tàu đầu tiên, các tàu này sẽ có vũ khí chống ngầm mạnh hơn.

Mùa thu năm 2011, có tin Việt Nam đang đàm phán với công ty Damen Schelde Naval Shipbuilding của Hà Lan về khả năng mua sắm 4 chiến hạm lớp SIGMA, loại tàu đang được đóng cho Indonesia và Morocco. Lớp tàu này có một số biến thể với lượng giãn nước từ 1.700-2.400 tấn.

Tàu hộ tống lớp SIGMA

Xét về tính năng và vũ khí, các tàu lớp SIGMA tương đương với Gepard của Nga, nhưng có giá cao hơn: tùy thuộc biến thể cụ thể, Việt Nam sẽ phải trả cho các tàu này 230-400 triệu USD/chiếc. Nếu hợp đồng sẽ được ký kết thì 2 tàu SIGMA đầu tiên dự định đóng ở Hà Lan, 2 tàu còn lại đóng tại Việt Nam.

Nhiều chuyên giá đánh giá khá thấp tiềm lực chiến đấu của các tàu Geparad và SIGMA khi chê trách các hệ thống chống ngầm và phòng không là yếu. Được đánh giá ngược lại lớp tàu corvette hạng nặng/frigate hạng nhẹ là các tàu ngầm thông thường và tàu xuồng tên lửa cỡ nhỏ. Tuy nhiên, các tàu chiến nổi biển xa cũng có hàng loạt ưu thế mà người ta thường không chú ý.

HQ-012 Lý Thái Tổ

Khác với các tàu xuồng tên lửa nhỏ, các tàu như Gepard của Nga có khả năng tiến hành tuần tra khá lâu ở khoảng cách khá xa bờ biển Việt Nam. Có trong tay 4-8 tàu chiến loại này, Việt Nam có khả năng bảo đảm sự hiện diện của 1-3 tàu ở Biển Đông. Kinh nghiệm đụng độ với hạm đội Trung Quốc năm 1974 và 1988 đã cho thấy rằng, các cuộc va chạm hải quân quy mô nhỏ có thể có những hậu quả chính trị lâu dài. Sự hạn chế về thời gian, lực lượng tham gia và tổn thất của cả hai phía của các cuộc đụng độ đó đã cho phép Trung Quốc thực thi thành công chính sách “việc đã rồi” mà không thèm chú ý đến cộng đồng quốc tế.

Việc Việt Nam sở hữu các tàu chiến biển xa hiện đại, được trang bị hệ thống tên lửa chống hạm uy lực mạnh làm tăng mạnh rủi ro đối với hạm đội Trung Quốc và làm giảm xác suất tiến hành một chiến dịch chóng vánh hiệu quả theo kịch bản năm 1974 và 1988. Hơn nữa, khác với tàu ngầm, các tàu chiến mặt nước là biểu hiện dễ thấy nhất của sức mạnh hải quân của quốc gia.

Các tàu ngầm có khả năng đóng vai trò then chốt trong trường hợp nổ ra xung đột, nhưng không phải là công cụ hiệu quả để ngăn chặn nó. Ta nên nhớ lại cuộc khủng hoảng năm 1977 xung quanh quần đảo Falklands/Malvinas, khi mà sự hiện diện của một tàu ngầm nguyên tử Anh đã không giúp gì nhiều trong việc kiềm chế xung đột và đã không thể ngăn chặn cuộc chiến tranh năm 1982.

Ngoài ra, đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, các chiến hạm mặt nước cỡ lớn là công cụ ngoại giao hải quân và phô trương sức mạnh quốc gia, cũng như là biểu tượng dễ thấy của uy thế quốc gia phục vụ tuyên truyền đối nội.

Hiện tại, Hải quân Việt Nam còn sở hữu 5 tàu hộ vệ lạc hậu Projekt 159 (3 tàu 159А và 2 tàu 159АE, HQ-09/11/13/15/17) mà Liên Xô chuyển giao trong thập niên 1960-1970. Các tàu này sắp tới chắc chắn sẽ bị loại khỏi biên chế hạm đội Việt Nam.

Hệ thống tên lửa bờ biển K-300P Bastion-P

Các tàu ven bờ và các hệ thống tên lửa phòng thủ bờ biển

Nền tảng của hạm đội Việt Nam là các tàu xuồng tên lửa cỡ nhỏ do Liên Xô và Nga đóng.

Trong những năm 1990-đầu những năm 2000, Hải quân Việt Nam đã mua của Nga 6 tàu tên lửa Projekt 1241RE (HQ-371-374/377/378), mỗi tàu mang 4 tên lửa chống hạm P-20M. Giá rẻ, khai thác đơn giản và sức mạnh hỏa lực cao của các tàu tên lửa Nga này đã tạo điều kiện cho việc ký kết vào năm 2005 hợp đồng lớn cung cấp 12 tàu tên lửa Projekt 1241.8. Hợp đồng này ước trị giá khoảng 1 tỷ USD.

Hai tàu đầu tiên (HQ-375/336) được đóng tại Nhà máy đóng tàu Vympel ở Rybinsk, Nga và được chuyển giao cho Hải quân Việt Nam vào năm 2007-2008. Từ năm 2010, Việt Nam đã bắt đầu đóng theo giấy phép một loạt 10 tàu loại này. Projekt 1241.8 có sức mạnh hỏa lực tăng mạnh so với các tàu Projekt 1241RE. Thay cho 4 tên lửa chống hạm P-20, Projekt 1241.8 được lắp 16 tên lửa chống hạm Kh-35.

Tàu tên lửa Molnya Projekt 1241.8 của Hải quân Việt Nam

Các tên lửa chống hạm Kh-35 của Nga là nền tảng tiềm lực chiến đấu của Hải quân Việt Nam. Loại tên lửa dưới âm nhỏ này có tầm bắn 130 km, còn biến thể hiện đại hơn là Kh-35UE có tầm bắn 260 km. Tên lửa chống hạm Kh-35 cho phép tác chiến hiệu quả chống các tàu chiến mặt nước có lượng giãn nước đến 5.000 tấn và các tàu hỗ trợ có lượng giãn nước đến 10.000 tấn của đối phương.

Năm 2004-2008, Tập đoàn Vũ khí tên lửa chiến thuật (KTRV) của Nga đã cung cấp cho Việt Nam 120 quả tên lửa chống hạm Kh-35E. Tháng 10/2010, Nga và Việt Nam đã ký hiệp định liên chính phủ về việc hợp tác phát triển và sản xuất hệ thống tên lửa Uran-EV trang bị tên lửa chống hạm Kh-35EV phục vụ riêng cho nhu cầu của hạm đội Việt Nam.

Bệ phóng tên lửa chống hạm Kh-35E / Uran-E trên tàu hộ vệ tên lửa HQ-012 Lý Thái Tổ

Cần lưu ý đến một thành phần quan trọng nữa của Hải quân Việt Nam – đó là  các hệ thống tên lửa bờ biển cơ động K-300P Bastion-P trang bị tên lửa chống hạm siêu âm hạng nặng Yakhont có tầm bắn đến 300 km do Tập đoàn công nghiệp quốc phòng NPO Mashinostroernia phát triển.

Hợp đồng cung cấp 2 hệ thống Bastion-P trị giá gần 300 triệu USD đã được ký vào năm 2005 và hoàn thành vào năm 2010-2011.

Có khả năng đến năm 2015, Nga sẽ bán thêm cho Việt Nam các hệ thống tên lửa bờ biển cơ động.

K-300P Bastion-P

Trong thành phần của hệ thống tên lửa bờ biển cơ động K-300P gồm có 4 xe bệ phóng lắp trên khung gầm xe MZKT-7930 (mỗi bệ phóng mang 2 tên lửa), 1 xe chỉ huy chiến đấu, các xe tiếp đạn. Bản thân các tên lửa được cất giữ trong các ống phóng kín, tạo điều kiện thuận lợi cho khai thác và tăng hạn sử dụng cho tên lửa chống hạm. K-300P có thể được tăng cường hệ thống phát hiện tầm xa ngoài đường chân trời và bám mục tiêu mặt nước Monolit-B triển khai trên bờ biển hoặc hệ thống chỉ thị mục tiêu lắp trên trực thăng.

Các tàu tuần tra và tàu pháo

Năm 1999-2001, Việt Nam đã tiến hành đóng 2 tàu tuần tra PS-500 (HQ-381/383) theo thiết kế của Viện thiết kế phương Bắc (SPKB) có lượng giãn nước gần 500 tấn. Các tàu lớp này có vũ khí tên lửa và pháo mạnh (tên lửa chống hạm Kh-35, các ụ pháo 76 mm và 30 mm) và có tính năng đi biển cao nhờ 2 ống dẫn tiến phụt nước mạnh và hình dáng thân kiểu chữ V sâu.

Việt Nam đang hoàn tất dự án đóng 6 tàu tuần tra Projekt 10412 Svetlyak do Viện thiết kế hải quân trung ương Almaz của Nga thiết kế. Các tàu nhỏ này có lượng giãn nước gần 400 tấn, dùng để thực hiện các nhiệm vụ bảo vệ bờ biển và  không được trang bị vũ khí tên lửa mạnh. Hai tàu đầu tiên (HQ-261/263)đã đóng xong năm 2002, 2 chiếc tiếp theo (HQ-264/265) hoàn thành vào năm 2011. Cặp tàu thứ ba đang đóng hoàn thiện tại Vladivostok, Nga và sẽ được chuyển giao cho Việt Nam trong năm 2012. Chi phí đóng 6 tàu này là gần 110 triệu USD

Hai tàu tuần tra lớp Projekt 10412 mang số hiệu nhà máy 044, 045 tại Nga
trước khi bàn giao cho Việt Nam ngày 20.10.2011

Tháng 1/2012, Hải quân Việt Nam được chuyển giao tàu pháo đầu tiên lớpTT400TP là HQ-272. Tàu này có lượng giãn nước gần 400 tấn, được trang bị 1 ụ pháo 76mm và 1 ụ pháo 30 mm. Tàu này do Nhà máy đóng tàu Z-173 thuộc Công ty đóng tàu Hồng Hà ở Hải phóng tự thiết kế. Dự kiến, Việt Nam sẽ đóng thêm ít nhất 2 tàu loại này. Tàu này được thiết kế dựa trên các thiết kế PS-500 và Projekt 10412 của Nga.

Tàu HQ-272 thử nghiệm trên biển

Năm 1979-1983, Hải quân Việt Nam đã nhận được 8 tàu tên lửa Projekt 205 (lượng giãn nước gần 200 tấn, vũ khí gồm 4 tên lửa chống hạm P-15 và 2 ụ pháo 30 mm) và 16 tàu phóng lôi Projekt 206 (lượng giãn nước gần 150 tấn, vũ khí gồm 4 ống phóng lôi 533 mm và 2 ụ pháo 30 mm). Các tàu này sẽ được loại khỏi biên chế.

Không quân hải quân

Nền tảng không quân hải quân của Hải quân Việt Nam là các trực thăng đa năng Ка-28 của Nga, dùng để triển khai trên các tàu hộ vệ Projekt 11661E Gepard 3.9. Chức năng chính của các trực thăng này là chống ngầm, ngoài ra còn có biến thể trực thăng radar phát hiện tầm xa Ка-31.

Năm 2010, Việt Nam đã ký với Công ty Viking Air của Canada hợp đồng mua 6 máy bay tuần tra hạng nhẹ DHC-6 Twin Otter. Các máy bay này sẽ được chuyển giao cho Hải quân Việt Nam vào năm 2012-2014. Hợp đồng có trị giá ước 30-40 triệu USD. Các máy bay này sẽ là thành phần quan trọng của hệ thống nắm bắt thông tin tình hình tại các vùng biển ven bờ của Việt Nam.

Máy bay tuần tra hạng nhẹ DHC-6 Twin Otter Series 400

Ngoài các chiến hạm thuộc các lớp cơ bản, Việt Nam còn sở hữu một đội tàu hỗ trợ, xuồng tuần tra  và tàu quét lôi mà việc đánh giá chúng chưa được thực hiện ở đây.

Như vậy, Hải quân Việt Nam đang trong tình trạng phát triển mạnh mẽ và quá độ từ một hạm đội ven bờ lạc hậu, không có khả năng bảo vệ thích đáng ngay cả vùng biển chủ quyền sang một hạm đội khu vực không lớn, nhưng hiện đại và đủ mạnh. Vào cuối thập kỷ này, Hà Nội dự định xây dựng được một hạm đội mà bản thân sự hiện diện của nó sẽ buộc Bắc Kinh kiềm chế, từ bỏ những mưu toan thiết lập thiết lập quyền kiểm soát đối với Biển Đông bằng vũ lực.

NHÂN VŨ (VIETNAMDEFENCE.COM)

Chiến thuật hải quân của Việt Nam trên Biển Đông

Với lối đánh sở trường của Việt Nam thì những gì công nghệ không làm được, chiến thuật làm được, và những gì mà công nghệ làm được, thì chiến thuật không cần…

Chiến thuật hải quân – một thành phần cấu thành của nghệ thuật, bao gồm lý thuyết và thực tế huấn luyện tác chiến và thực hiện các hoạt động tác chiến trên biển của các đơn vị binh chủng hợp thành, các binh chủng, các phân đội của các binh chủng thuộc quân chủng hải quân. Chiến thuật hải quân được hình thành từ thời cổ đại, khi các chiến hạm còn sử dụng mái chèo và buồm, các trận chiến đấu thông thường diễn ra trong điều kiện thời tiết tương đối tốt, các đòn tấn công chủ yếu là giáp trận, đâm tàu, đổ bộ giáp chiến chiếm thuyền.

Sự phát triển của vũ khí nòng trơn (súng thần công) đã thay đổi hình thái chiến thuật hải quân, súng thần công trở thành vũ khí chủ lực trên chiến hạm, các trận đánh trên biển diễn ra với các tàu thuyền được trang bị pháo hạm, cơ động trên tuyền cơ động chiến đấu, tấn công và giáp chiến bằng hỏa lực pháo binh. Việc xuất hiện các pháo hạm có cỡ nòng lớn hơn ( 338 mm) đồng thời với kỹ thuật lái tàu đã xuất hiện chiến thuật tấn công cơ động hàng dọc, đột phá tuyền chiến đấu của đối phương và cận chiến bằng pháo hạm với các cuộc đổ bộ giáp chiến bằng thủy binh giữa thế kỷ 18.

Sự xuất hiện máy hơi nước đã làm thay đổi các chiến hạm, đến giữa thế kỷ 19. Lực lượng tác chiến chủ lực của hạm đội là các chiến hạm động cơ hơi nước và có bọc giáp chống đạn (Thiết giáp hạm) Chiến thuật hạm đội có thay đổi, có 3 bước tiến hành một trận chiến trên biển, trinh sát hạm đội đối phương bằng các tàu khu trục hạng nhẹ, triển khai đội hình chiến đấu các thiết giáp hạm và các tuần dương hạm bọc thép; tác chiến tấn công hay phòng ngự bằng hỏa lực của pháo hạm; phát triển tiến công tiêu diệt hạm đội đối phương bằng các khu trục hạm hạng nhẹ hoặc khu trục hạm hạng nhẹ thực hiện các đòn đánh chặn bảo vệ cho các thiết giáp hạm chủ lực rút lui trong trường hợp trận chiến không phát triển thuận lợi.

Các chiến thuật bao gồm có tiến công bằng hỏa lực mạnh, đột phá đội hình chiến hạm đối phương bằng hỏa lực tập trung, tấn công cạnh sườn, chia cắt và bao vây tiêu diệt. Để xuyên phá đội hình, tấn công kỳ hạm của liên đoàn chiến hạm đối phương, thông thường sử dụng một liên đội các tàu khu trục bọc giáp tốc độ cao. Song song cùng với chiến thuật pháo hạm, cũng xây dựng chiến thuật các khu trục hạm, các chiến thuật xây dựng tuyến phòng thủ thủy lôi và vật cản.

Sự phát triển của chiến thuật hải quân đặc biệt phát triển trong đại chiến thế giới lần thứ I, do có sự thay đổi sâu sắc trong tính chất của các trận đánh trên biển, do sự phát triển của khoa học công nghệ đã đưa vào biên chế hải quân những loại vũ khí trang bị mới, đó là ngư lôi, máy bay và tàu ngầm, số lượng các chiến hạm tăng vọt và từ đó, xuất hiện những khái niệm mới về chiến lược và chiến dịch hải quân.

Trong khói lửa của nội chiến chống bạch vệ và các lực lượng can thiệp nước ngoài đã hình thành chiến thuật Hải quân Xô Viết, đồng thời do đặc thù của chiến tranh, chiến thuật hải quân bao trùm thêm nghệ thuật tác chiến của các hạm đội hải quân đường sông và các biển hồ, nghệ thuật tác chiến trên sông lớn như sông Vonga, Amur, Dnhepr .. phối hợp với chiến thuật của lục quân. Hải quân tham gia các hoạt động chiến đấu như đổ bộ đường sông và đường biển, tác chiến vùng nước ven bờ và bảo vệ các căn cứ bờ biển, hải cảng quân, dân sự. Đến những năm 1920x – 1930x đã hoàn thành những lý luận và thực tiễn cơ bản cho nghệ thuật tác chiến của Hải quân Xô Viết.

Chiến tranh thế giới lần thứ II làm thay đổi hầu hết những lý luận cơ bản, quan niệm và khái niệm không gian chiến trường, đặc biệt, khái niệm tác chiến chiến thuật được chia ra thành 2 tư duy rõ rệt, tư duy phát triển chiến thuật theo hướng tác chiến Không – Hải của các nước phương Tây và tư duy tác chiến theo hướng Bộ- Không- Hải của các nước đang phát triển phù hợp với hệ tư tưởng phòng thủ đất nước. Trong các nước có nền công nghiệp hùng mạnh và có tư duy kinh tế hải dương như Nhật Bản hay Mỹ, vai trò quan trọng trong tác chiến hải dương là lực lượng không quân hải quân có trên tàu sân bay.

Hải quân các đế quốc biển đã phát triển hệ thống chiến thuật không hải, trong đó không quân hải quân đóng vai trò đòn tấn công chủ lực. Không quân Hải quân triển khai các trận đánh hải chiến, khi lực lượng chiến hạm của các hạm đội còn cách xa nhau hàng trăm hải lý, đồng thời lực lượng tàu ngầm luồn sâu đánh vào các chiến hạm quan trọng, hoặc cắt đường vận tải, phá đối hình chiến đấu của đối phương. Các lực lượng khu trục hạm hoặc tàu tuần biển phóng ngư lôi hạng nhẹ, tốc độ cao, dưới sự yểm trợ của không quân đánh phá đội hình địch.

Sự có mặt của các tàu tuần dương, tuần dương bọc thép, thông thường đi kèm với tiêu diệt lực lượng hải quân còn lại của đối phương, hoặc đánh phá các căn cứ ven bờ, yểm trợ hỏa lực đổ bộ đường biển. Áp dụng không quân và tàu ngầm phóng lôi cho phép mở không gian chiến trường rộng lớn, các đòn tấn công diễn ra đa chiều, từ trên không, trên biển, và dưới biển. Nội dung quan trọng bậc nhất trong chiến thuật hải chiến của đại chiến thế giới lần thứ 2, đó là tiến hành các chiến dịch tấn công bằng không quân hải quân, và những cuộc chiến đấu ngầm dưới nước.

Hai mặt trận đều có sự liên kết phối hợp các đơn vị trong quân chủng hải quân nhằm đạt mục tiêu tiêu diệt hải lực của đối phương.Nghệ thuật tác chiến hải quân của quân đội Xô Viết phát triển theo hướng độc lập tác chiến của các hạm đội có sự yểm trợ tích cực của không quân hải quân có căn cứ trên bộ, đồng thời tác chiến phối hợp chặt chẽ với các lực lượng bộ binh. Mục tiêu quan trọng hàng đầu của các hạm đội, là các tuyến đường vận tải biển của đối phương. Do đó, chiến thuật hải quân Xô Viết tập trung vào những trận đánh cắt đường vận tải với những đòn tấn công tập trung của không quân Hải quân, tàu ngầm và các hải đoàn tàu tốc độ cao nhằm tiêu diệt các đoàn congvoa vận tải, chở quân hoặc đổ bộ đường thủy của đối phương.

Đặc biệt, hải quân Xô Viết phát triển mạnh chiến thuật sử dụng các hải đội tàu ngầm tập trung tiến công hạm đội hoặc các đoàn vận tải quân sự của đối phương, có sự phối kết hợp chặt chẽ của các lực lượng khác như không quân chiến thuật, không quân chiến lược và máy bay tiêm kích. Trong các trận đánh của đại chiến thế giới lần thứ II, lực lượng lính thủy đánh bộ Xô Viết đã phát triển mạnh kỹ thuật đổ bộ đường biển, kết hợp với những đòn tấn công hỏa lực của pháo hạm, đánh vu hồi, tạt sườn, chiếm bàn đạp ven bờ và thọc sâu vào hậu phương đối phương, kết hợp với các binh chủng của lục quân đánh bao vây tiêu diệt địch.

Sự phát triển của chiến thuật hải quân

Đại chiến thế giới thứ II kết thúc. Các đế quốc ven biển phát triển mạnh lực lượng Hải quân theo xu hướng viễn dương, sử dụng lực lượng không quân hải quân như những đòn đánh chủ lực để tiêu diệt lực lượng phòng thủ bờ biển của đối phương, tiêu diệt hạm tàu ngay trên quân cảng bằng những đòn đánh chiến lược. Trong cuộc đua trên và dưới biển, lực lượng tàu ngầm phát triển mạnh mẽ với tầm nhiệm vụ tác chiến ngày càng cao, từ những đòn đánh tiêu diệt hạm đội đến những đòn đánh vào sâu trong nội địa đối phương.

Sự phát triển của tàu ngầm hạt nhân, vũ khí hủy diệt lớn và công nghệ điện tử – viễn thông, điều khiển học khiến nghệ thuật tác chiến tiếp tục hoàn thiện và phát triển theo xu hướng tôn trọng hỏa lực. Công nghệ phương tiện mang- tên lửa đạn đạo, tên lửa hành trình mang các đầu đạn hủy diệt lớn, đầu đạn thông thường, đầu đạn có lượng nổ mạnh có tầm bằn lên đến hàng trăm, hành nghìn hải lý. Các tàu ngầm, chiến hạm nổi trở thành các căn cứ quân sự và các điểm hỏa lực tầm xa, các đòn tấn công được phát triển từ nhiều hướng vào một mục tiêu, các tàu có thể quản lý nhiều mục tiêu trong một trận đánh.

Sơ đồ bay của tên lửa chống tàu BGM109 Tomahawk

Sơ đồ bay của tên lửa chống tàu BGM109 Tomahawk.

Phương án tác chiến được chia thành 2 không gian chiến trường, chiến trường trên biển và chiến trường dưới đáy biển. Các giai đoạn của hải chiến bao gồm có 3 giai đoạn:

Giai đoạn 1- Tấn công trên mặt biển và các căn cứ bờ biển bằng những đòn đánh tập trung của không quân, hỏa lực hải quân bao gồm tên lửa hành trình và pháo hạm tầm xa và săn ngầm và chống ngầm dưới đáy biển sâu.

Giai đoạn 2- Hỏa lực không – hải phát triển sâu vào các mục tiêu quan trọng trên đất liền, các khu trục hạm và chiến hạm cao tốc chế áp lực lượng phòng thủ vùng nước và phòng thủ bờ biển. Lực lượng tàu ngầm và các hải đội đánh ngầm phá hủy tuyến phòng thủ ngầm dưới biển ( thủy lôi, lưới chắn tàu, v.v…) tạo cửa mở cho lực lượng đổ bộ đường biển.

Giai đoạn 3- Không quân hải quân thực hiện nhiệm vụ khống chế bầu trời, quản lý các mục tiêu mặt đất, dập tắt các hỏa điểm đột ngột phát sinh, đánh chặn các tuyến vận tải và săn lùng các mục tiêu trên bộ và trên biển. Lực lượng lính thủy đánh bộ, hải quân triển khai đổ bộ đường biển, tấn công phá hủy các mục tiêu bờ biển.

Tác chiến phòng không của hải đội tàu ngầm

Tác chiến phòng không của hải đội tàu ngầm.

Sự phát triển của các loại tên lửa, bom điều khiển, bom thông minh, máy bay chiến đấu không người lái làm tăng sức mạnh của các đòn đánh chiến thuật, từ việc phát triển các tàu mang tên lửa đã phát triển các hình thái chiến thuật; chiến thuật tàu ngầm mang tên lửa, chiến thuật tàu tuần biển, tuần duyên mang tên lửa, chiến thuật của các khu trục hạm tên lửa, chiến thuật của máy bay cường kích chống tàu, trực thăng tấn công chống hạm đi kèm với những chiến thuật truyền thống như tác chiến tiến công của các tàu phóng ngư lôi tàng hình, chiến thuật tấn công tàu ngầm, chiến thuật chống ngầm, chiến thuật quét mìn và mở cửa mở, chiến thuật tấn công chế áp đường không, ven biển với các lực lượng phòng không, lực lượng phòng thủ bờ biển, chiến thuật đổ bộ không – hải kết hợp.

Sơ đồ tấn công mục tiêu bằng tên lửa hành trình

Sơ đồ tấn công mục tiêu bằng tên lửa hành trình.

Tàu ngầm nguyên tử mang tên lửa có khả năng cơ động bí mật, dài ngày tại những vùng biển nằm ngoài khả năng chống ngầm của đối phương, tấn công bất ngờ bằng tên lửa đạn đạo mang đầu đạn hủy diệt lớn, tên lửa hành trình vào các mục tiêu trên biển và trên đất liền với chiều sâu tấn công hàng nghìn km. Không quân hải quân mang tên lửa có thể tấn công từ nhiều hướng, nhiều mục tiêu cùng một lúc với các tên lửa chống hạm trên khoảng cách ngoài tầm phòng thủ của các loại vũ khí phòng không đối phương.

Các tàu tuần dương, khu trục hạm mang tên lửa có thể đánh chặn các lực lượng không quân chống tàu và tiêm kích ngay trên đường băng cất cánh của đối phương. Lực lượng tàu ngầm và lực lượng đặc nhiệm hải quân, với những trang bị hiện đại (tàu ngầm mini, robot ngư lôi) có khả năng tiếp cận tuyến phòng thủ ven biển của đối phương và phá hủy các khu vực phòng thủ biển, vô hiệu hóa các trận địa tên lửa bờ biển.

Tác chiến không đối hải

Tác chiến không đối hải.

‘Cú ra đòn’ sở trường Việt Nam

Phương thức chiến thuật “thống trị bầu trời” kết hợp với vũ khí trang bị hiện đại là đang trở thành mối nguy hiểm của các nước ven biển đang phát triển và có nền công nghiệp quốc phòng hạn chế. Các cuộc chiến tranh vùng Vịnh đã minh chứng cho khả năng tác chiến của các cường quốc biển và sự nguy hiểm của công nghệ chiến tranh hiện đại. Nhưng nếu “những gì công nghệ không làm được, thì chiến thuật làm được; những gì mà công nghệ làm được, thì chiến thuật không cần”. Trong mọi điều kiện chiến trường, công nghệ luôn song hành cùng chiến thuật để hoàn thành nhiệm vụ.

Sơ đồ hoạt động tàu khu trục Maddox ở Việt Nam<br />

Sơ đồ hoạt động tàu khu trục Maddox ở Việt Nam

Trong cuộc chiến tranh Việt Nam, với một đất nước không có nền công nghiệp quốc phòng, lực lượng hải quân còn rất mỏng, Quân đội Mỹ đã điều động một lực lượng hải quân hùng mạnh, bao gồm cả tàu sân bay, tuần dương, khu trục, phong tỏa toàn bộ khu vực bờ biển Việt Nam và không phận Việt Nam, hỏa lực pháo binh của Hải quân Mỹ tấn công toàn bộ khu vực bờ biển, hỏa lực không quân có mặt 24/24 khống chế bầu trời Việt Nam.

Nhưng Hải quân Mỹ cũng phải chịu những đòn đánh của một lực lượng hải quân nhỏ bé và cũng phải chịu những tổn thất bất ngờ. Thực hiện ý đồ tấn công Miền Bắc để giải tỏa áp lực Ngoài khơi vịnh Bắc bộ, tàu khu trục Maddox tiếp tục tiến về phía bắc, xâm phạm hải phận của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và gây ra một số vụ khiêu khích đối với thuyền đánh cá của ngư dân miền Bắc.

Đặc biệt đêm 31-7 rạng sáng 1-8-1964, tàu khu trục Maddox đã xâm phạm vùng biển Quảng Bình, sau đó tiến lên phía bắc, điều tra các mạng lưới phòng thủ của Việt Nam ở khu vực đèo Ngang, Hòn Mát, Hòn Mê, Lạch Trường. Phân đội 3 gồm ba xuồng phóng lôi 333, 336, 339 nhận nhiệm vụ đánh chặn. Ngày 2-8, 3 xuồng phóng lôi của Hải quân Việt Nam tiếp cận và tấn công. Tàu khu trục Maddox sử dụng hỏa lực mạnh đánh chặn, tàu 333 nghi binh cho xuồng 336 và 339 tấn công. Mỹ sử dụng 5 máy bay hải quân tham chiến, hỏa lực của tàu khu trục làm 2 xuồng 336 và 339 bị tổn thương. Xuồng phóng lôi 333 quay trở lại, dù bị trúng đạn pháo nhưng vẫn tận dụng tốc độ cao và áp sát khu trục hạm Maddox, bị trúng 1 quả ngư lôi của xuống 333. tàu Maddox rút khỏi vịnh Bắc bộ.

Sơ đồ hải chiến với tàu Maddox

Sơ đồ hải chiến với tàu Maddox.

Trận hải chiến thứ 2 diễn ra ven bờ biển Đồng Hới, ngày 19/4/1972 giữa không quân và hải quân Việt Nam và hạm đội 7 Mỹ.

Lực lượng tham chiến phía Hải quân nhân dân Việt Nam gồm: 3 tàu phóng lôi; 2 Mig-17F Fresco-C . Về phía Hạm đội 7 có sự tham gia của: 1 Tuần dương hạm (tuần dương tên lửa USS Oklahoma City-CLG5); 2 khu trục hạm (khu trục USS Lloyd Thomas, USS Higbee);1 hộ tống hạm(hộ tống hạm tên lửa USS Sterett-DGL-31).

Sơ đồ hải chiến đánh liên đội tàu hạm đội 7 Mỹ

Sơ đồ hải chiến đánh liên đội tàu hạm đội 7 Mỹ.

Hai phi công Việt nam là Lê Xuân Dị và Nguyễn Văn Bảy, được sự yểm trợ của các xuống phóng lôi nghi binh, xuất kích từ sân bay dã chiến, đã sử dụng phương thức tấn công bay thấp tránh hệ thống radar cảnh báo, hệ thống tên lửa và pháo phòng không của các chiến hạm được trang bị vô cùng hiện đại. Máy bay MIG 17 của không quân Việt Nam bay cách mặt nước biển 10 m, phóng bom. Bom đã đánh trúng boong tàu của hai chiến hạm, hai máy bay MIG 17 quay về sân bay an toàn.

MIG 17 hải chiến

MIG 17 hải chiến.

Từ hai trận của không quân, hải quân Việt Nam, rõ ràng với nghệ thuật tác chiến bất ngờ, kỹ thuật sử dụng trang bị thành thạo, cùng với phương thức tiếp cận đối phương nằm ngoài dự kiến đã làm cho một lực lượng hải quân hùng mạnh bị rơi vào tình trạng bất ngờ, lúng túng đối phó và rất dễ bị tiêu diệt hay đánh thiệt hại nặng.

Hải chiến kinh điển

Điển hình của chiến thuật sử dụng tên lửa chống tàu được thể hiện trong trận hải chiến giữa các liên đội tàu chiến mang tên lửa và ngư lôi của Israel với Syria và các nước Arập. Trước cuộc chiến tranh 6 ngày Hải quân Israel được trang bị các tàu phóng tên lửa cao tốc lớp “Reshef” trang bị tên lửa chống tàu Gabriel. Hải quân Syria và các nước Arập được biên chế các tàu phóng tên lửa Kamar và Osa sử dụng tên lửa Termite-U có tầm bắn 35 – 40 km điều khiển bằng radar. Tên lửa Gabriel có độ chính xác rất cao, nhưng tầm bắn ngắn hơn đến 2,5 lần.

Do đó, để có thể tấn công, tàu phòng tên lửa của Israel phải đi vào tầm bắn của tàu tên lửa Kamar và Osa từ 20 đến 25 km. Sau khi bị tổn thất một số tàu, Hải quânIsrael đã thay đổi chiến thuật tác chiến, họ quyết định giải quyết vấn đề bằng giải pháp gây nhiễu đầu dẫn tên lửa chống tàu bằng các đầu tạo xung gây nhiễu, đồng thời sơn phủ tàu bằng lớp vật liệu hấp thụ sóng radio, chuyển thành nhiệt lượng tỏa ra ngoài không khí.

Trận hải chiến hai ngày 6-7/10/1963. Hải quân Israel sử dụng năm tàu phóng tên lửa đi vòng qua bờ biển Lybia, vào lúc 2228 ngày 6/10/1973 đã phát hiện liên đội tàu phóng lôi Syria đỗ bên bờ biển Lattakia. Hải đội tàu Israel sử dụng pháo hạm đánh chìm 5 tàu phóng lôi Syria. Sau đó quay về hướng đông ra biển, sử dụng tên lửa tiêu diệt 1 tàu quét mìn của Syria. Lúc đó 3 tàu tên lửa của Syria đã phát hiện ra đội tàu của Israel trên khoảng cách 40 km, cả hai bên đều sử dụng tốc độ di chuyển để chiếm vị trí tấn công, ở khoảng cách 37,5km hải đội Syria sử dụng ưu thế của tên lửa đã phóng loạt đầu tiên. Hải quân Israel lập tức khởi động hệ thống gây nhiễu, tên lửa chống tàu của Syria lạc hướng và lao xuống biển, hải đội tàu phóng tên lửa của Israel dùng tốc độ cao tiếp cận tàu của Syria, bắn hạ 2 tàu phóng tên lửa của Syria, tàu thứ 3 bỏ chạy và bị mắc cạn, bị pháo hạm của Israel tiêu diệt.

Hải chiến của tàu tên lửa Israel và Syria

Hải chiến của tàu tên lửa Israel và Syria.

Chiều ngày 7/10/1973, hạm tàu Israel xuất kích đánh chặn liên đoàn tàu của Arập, gồm 4 tàu phóng tên lửa lớp Osa trang bị tên lửa Termit U. 2300 cùng ngày, liên đoàn tàu Arập phát hiện hạm tàu Israel ở khoảng cách 38km, lợi dụng ưu thế của tên lửa đã phóng 12 đầu đạn về phía tàu Israel, hạm tàu của Israel sử dụng chiến thuật cũ, bật toàn bộ hệ thống gây nhiễu và tăng tốc tiến về liên đội tàu Arập cận chiến, 12 tên lửa chống tàu Termite-U bị nhiễu loạt lạc hướng rơi xuống biển, sau 12 phút truy đuổi, hạm đội Israel bắt kịp liên đội tàu Arập và khai hỏa tên lửa Gabriel, đánh chìm 3 tàu phóng tên lửa, tàu thứ 4 bị tổn thương nặng nề và phải thả trôi về cảng.

Hải chiến của tàu tên lửa Israel và các nước Arap

Hải chiến của tàu tên lửa Israel và các nước Arap.

Trong trân chiến quần đảo Falklands thuộc vùng biển Argentina, với những máy bay cũ kỹ Skyhawk, tên lửa chống hạm Excocet, nhưng bằng chiến thuật đánh cận chiến, bay sát mặt nước biển tránh radar và tên lửa phòng không, không quân Argentina đã đánh thiệt hại nặng hạm đội hùng mạnh của Anh, đánh chìm 6 chiếc chiến hạm hiện đại. Mặc dù thất bại trong việc dành lại quần đảo Falklands, nhưng chiến thuật bay sát mặt nước biển, phóng tên lửa chống tàu vào sườn tàu, trở thành kỹ thuật tác chiến cơ bản của không quân Hải quân các nước nghèo.

Từ những lý luận và quan điểm của chiến tranh công nghệ cao, đối với các lực lượng phòng thủ, để chống lại một cuộc tập kích không – biển hiện đại, cần có sự tổ chức phòng thủ chu đáo, tỷ mỉ và tính đến mọi tình huống. Huấn luyện chiến thuật và thực hành nghệ thuật tác chiến thường xuyên, liên tục, với cường độ ngày càng cao và mức độ ngày càng tăng cường.

Phương án phòng thủ nào cho Biển Đông?

Việt Nam có bờ biển dài, nhiều đảo, vùng đặc quyền kinh tế rộng cho nên hiện nay việc xây dựng kế hoạch, phương án phòng thủ nhằm giữ vững chủ quyền trong mọi tình huống là điều hết sức quan trọng. Hệ thống phòng thủ cần quản lý không trung trên biển, quản lý mặt biển, quản lý chiều sâu dưới biển. Lực lượng hải quân (không quân, hạm đội, các lực lượng phòng thủ bờ biển huấn luyện tác chiến và sẵn sàng tác chiến trên một tuyến phòng thủ có chiều rộng, đa tầng, bao gồm các các bãi thủy lôi thông minh, các bãi vật cản cơ động, các tuyến chiến đấu của hạm đội tàu ngầm, khu vực phòng thủ hỏa lực của các hạm đội hoặc liên đoàn tàu tuần biển, tuần duyên, trực thăng đa năng, các lực lượng đặc nhiệm hải quân và các lực lượng phòng thủ bờ biển (pháo tầm xa, tên lửa đối hạm, hệ thống phòng không tên lửa và pháo phòng không).

Hệ thống tên lửa bờ biển Bastition sử dụng tên lửa YAxon

Hệ thống tên lửa bờ biển Bastion sử dụng tên lửa Yakhon.

Trong chiến tranh hiện đại, việc sử dụng các radar tầm xa, các sonar công suất lớn, các máy bay robot, máy bay trinh sát và vệ tinh trinh sát tạo thành một hệ thống quan sát tinh vi, bao trùm cả không gian 3 chiều của chiến trường, nhiệm vụ tổ chức một hệ thống ngụy trang, che khuất tầm nhìn trên một hoặc nhiều vùng rộng để hải thuyền, tàu ngầm có thể xuất kích bí mật, bất ngờ là yếu tố quan trọng trong bảo vệ lực lượng.

Hệ thống thông tin liên lạc, trinh sát và và kiểm soát an toàn thông tin là các mạch máu trong một hệ thống phòng thủ mạnh trước các đòn tấn công chế áp thông tin. Thành công trong bảo vệ mạng truyền thồng là cơ sở để triển khai hải chiến phòng thủ thành công. Khi xây dựng, bố trí và huấn luyện tác chiến, cần chú trọng các tình huống bị tấn công thông tin bằng các phương tiện vũ khí hiện đại.

Tác chiến tàu ngầm là nghệ thuật tác chiến quan trọng nhất của chiến đấu phòng thủ, nó bao gồm có tìm kiếm mục tiêu theo yêu cầu nhiệm vụ được giao, tấn công mục tiêu, phục kích dài ngày ở các khu vực có khả năng tấn công các hạm đội đối phương, quét mìn, triển khai lực lượng đặc nhiệm hải quân, đấu tranh chống lại các phương tiện săn ngầm như máy bay, các lớp tàu săn ngầm, chiến đấu với tàu ngầm đối phương. Lực lượng tàu ngầm có thể tác chiến độc lập hoặc tác chiến liên kết phối hợp với các binh chủng của hải quân.

Một tàu ngầm có thể quản lý nhiều mục tiêu, đồng thời các mục tiêu theo yêu cầu tác chiến cũng được quản lý bởi nhiều phương tiện chiến tranh như chiến hạm, không quân hải quân. Đặc thù của tác chiến tàu ngầm là bí mật triển khai lực lượng trên biển, tham gia các hoạt động tác chiến dưới biển (phục kích, tập kích, yểm trợ hỏa lực, săn ngầm và chống săn ngầm, cơ động từ quân cảng ra biển, và từ biển vào căn cứ đều phải bí mật tối đa. Các đòn tấn công thường được thực hiện bằng tên lửa hành trình, đạn đạo, hoặc ngư lôi chống tàu.

Máy bay Su 27 tấn công

Máy bay Su 27 tấn công mục tiêu.

Hệ thống phòng không phòng thủ bờ biển là yếu tố tiên quyết đảm bảo thắng lợi cho hệ thống phòng thủ. Khi tấn công, đối phương sẽ sử dụng những đòn tấn công từ tàu ngầm, tàu nổi, máy bay cường kích tên lửa. Hệ thống phòng không có nhiệm vụ quan trọng là đánh chặn các đòn tấn công bằng tên lửa hành trình, tên lửa đạn đạo, máy bay tàng hình tầm thấp, bom thông minh.

Do tính chất đặc thù của vũ khí hiện đại, hệ thống phòng không sẽ phải trải rộng, từ các hải thuyền, máy bay tiêm kích không hải đến các cụm pháo, tên lửa phòng không cố định hoặc cơ động, đa tầm và đa hướng. Hệ thống phòng không cần chú trọng phát triển các cỡ nòng khác nhau, từ cỡ nòng tầm rất thấp 12,7mm đến 14,5 mm, 23 mm, 30 mm và các loại tên lửa tầm thấp như Igla đến tầm trung Vonga, tầm xa như tổ hợp tên lửa S-300.

Các đơn vị phòng không phải được kết nối trong một hệ thống phòng không chiến thuật dạng mạng Net, tạo ra các cụm hỏa lực dầy đặc cơ động, trên biển, ven biển và cơ động bờ biển. Áp dụng triệt để hệ thống điều hành bằng công nghệ truyền thông dạng mạng đa điểm, đa trung tâm. Đa tầng chỉ huy, quản lý và kết nối chặt chẽ với các hệ thống chỉ huy, kiểm soát, truyền thông và liên kết phối hợp.

Trong giai đoạn phát triển công nghệ hiện đại ngày nay, với mức chi phí không lớn, có thể tạo ra được các khu vực nhiễu loạn điện từ, quang điện hoặc radio, vùng mù điều khiển đó rất nguy hiểm cho các loại vũ khí điều khiển như tên lửa hành trình, bom hoặc đầu đạn có điều khiển laser hoặc tự dẫn hồng ngoại. Khi các loại vũ khí hiện đại bay vào vùng nhiễu điện từ, quang học sẽ mất điều khiển và tự hủy. Việc nghiên cứu chế tạo phải được thực hiện ngay hôm nay, vì đó là khả năng phòng thủ mạnh mẽ của tương lai.

Máy bay SU 27 sử dụng tên lửa chống tàu bảo vệ vùng biển

Máy bay SU 27 sử dụng tên lửa chống tàu bảo vệ vùng biển.

Phương án phòng thủ cao nhất là tấn công, đối với các lực lượng đối phương có công nghệ quốc phòng và tiềm năng quân sự lớn, nguyên tắc sống còn trong tấn công vẫn là cơ động nhanh, bí mật, bất ngờ, sử dụng chiến thuật tập kích bí mật, các đòn tấn công dồn dập từ nhiều hướng, nhiều chiều, nhiều phương tiện hỏa lực, chú trọng tập trung các phương tiện hỏa lực như không quân hải quân, xuồng phóng ngư lôi hoặc tên lửa chống tàu tập trung vào một mục tiêu là phương thức chủ yếu để chống lại các hạm tàu hiện đại.

Các đòn tấn công có thể diễn ra trực tiếp, với mục tiêu là các chiến hạm hoặc tàu ngầm, nhưng cũng có thể gián tiếp bằng các lực lượng đặc nhiệm hải quân, như tàu ngầm hải quân đánh tiêu diệt các đoàn tàu quân sự vận tải, máy bay cường kích hoặc lực lượng đặc nhiệm hải quân đánh các căn cứ quân sự trên đất liền của đối phương hoặc trên đảo, trên tàu sân bay.

Tàu tuần biển sử dụng tên lửa chống tàu

Tàu tuần biển sử dụng tên lửa chống tàu.

TRỊNH THÁI BẰNG (TIỀN PHONG)

Đòn Rồng – kịch bản Trung Quốc tấn công phủ đầu Việt Nam

Kịch bản do hai chuyên gia Humphrey Hawksley và Simon Holberton những nhà báo kỳ cựu chuyên theo dõi khu vực Viễn Đông, đưa ra từ cuối thập kỷ 1990 trong cuốn sách “Đòn Rồng”, dựa trên những kinh nghiệm chính trị sâu sắc của mình cùng nhận định Viễn Đông luôn là điểm nóng” tiềm tàng, tiềm ẩn nhiều nguy cơ xung đột sẵn sàng bùng nổ.

Căn cứ hải quân Cam Ranh và Đà Nẵng là hai địa điểm đầu tiên được Trung Quốc lựa chọn cho đòn tấn công mở màn nhằm Việt Nam.

Sáng tinh mơ, 12 chiếc máy bay chiến đấu đa năng Su-27 hộ tống 20 chiếc máy bay cường kích A-7, máy bay tấn công mặt đất thế hệ mới của Trung Quốc – một phiên bản phát triển từ cường kích Su-24 Fencer của Nga nhanh chóng lao tới bờ biển Việt Nam, mục tiêu là Vịnh Cam Ranh, căn cứ quân sự lớn nhất của QĐND Việt Nam.

Dựa vào radar theo dõi mặt đất, những chiếc máy bay này xà thấp, khi trên đầu mục tiêu, chúng nhanh chóng cắt bom chùm xuống mặt đất. Những quả bom đã phá hủy căn cứ một cách nhanh chóng.

Sau khi cắt bom, những chiếc Fencer này vọt lên cao, những chiếc có gắn ổ súng ở dưới bụng đã bay vòng trở lại, tiếp tục xả đạn vào bất cứ chiếc Mig-21 Fisbed cũ kỹ của Việt Nam nằm trên đường băng.

Chỉ trong vòng 5 phút, hệ thống phòng không Việt Nam chỉ còn là đống đổ nát, méo mó. Các tòa nhà và dàn radar bị phá hủy, tháp kiểm soát không lưu không còn hoạt động.

Tuy nhiên, đòn phủ đầu này chưa thể phá hủy hoàn toàn căn cứ. Ngay lập tức, 24 máy bay ném bom chiến lược H-6, bản sao của máy bay ném bom phản lực cánh quạt Tu-16, xuất phát từ căn cứ không quân Hải khẩu ở phía nam đảo Hải Nam lao đến. Phạm vi hoạt động 2.000 km, mang được 5 tấn bom, những chiếc TU-16 này được 12 máy bay đánh chặn Thẩm Dương J-8II cánh tam giác bảo vệ. Man theo thùng dầu phụ, J-8 đủ sức bay theo H-16. Hệ thống radar Zhuk do Nga sản xuất cho phép J-8 đồng thời theo dõi 10 mục tiêu. Cuối cùng là những chiếc máy bay tiếp dầu vốn được cải tạo từ máy bay vận tải Nga IL-78 bay cách đó 500 km để đảm bảo những chiếc máy bay tấn công có đủ nhiên liệu khi quay về.

Cuộc không chiến đầu tiên của Đòn Rồng diễn ra trong vòng chưa đầy 30s, một chiếc J-8 bám theo 2 chiếc Mig-21 đan trên đường tuần tra thường lệ trở về. Chiếc đầu tiên bị bắn hạ bằng tên lửa tầm gần. Chiếc thứ hai thoạt đầu gặp may vì thiết bị dò tìm mục tiêu trên tên lửa bị lẫn lộn bởi hai máy bay đang bay theo đội hình…

Cuộc tấn công của những chiếc H-6 là thảm họa chưa từng có trong một căn cứ quân sự của NATO (ám chỉ căn cứ này do Mỹ xây dựng đầu tiên). Lý do là khi xây dựng căn cứ, người ta không đặt ra vấn đề giúp nó tồn tại qua một cuộc tấn công bất ngờ.

Nhưng chưa phải đã hết, khi những chiếc ném bom chiến lược hoàn thành nhiệm vụ. Tiếp tục một phi đội A-7 (nhái từ máy bay cường kích Su-24 Fencer) lao đến. Mỗi chiếc đem theo 4 quả tên lửa chống hạm C-802. Trong vòng vài phút. Mọi quả tên lửa đều được bắn ra, mục tiêu là các chiến hạm Việt Nam đang trú trong căn cứ.

Cùng lúc đó, không quân Trung Quốc cũng ra tay chớp nhoáng với căn cứ Đà Nẵng. Lãnh nhiệm vụ tấn công là 12 chiếc Su-27, 12 chiếc A-7 và 12 máy bay ném bom chiến đấu JH-7 (Jang Hong) của hải quân Trung Quốc.

Vì sự chậm chạp của những chiếc JH-7 trong khi những chiếc Su-27 gây nhiễu chậm chạp khiến 15 chiếc Mig-21 của Việt Nam có thời gian bay lên nghênh chiến.

Mặc dù không thể so sánh được với Su-27 nhưng do các phi công Việt Nam được đào tạo tốt hơn, số giờ bay nhiều hơn. Hai chiếc 2 chiếc JH-7 đã bị bắn hạ: Một do Mig 21, một do tên lửa phòng không SA-6 Kub. Cả phi đội Mig 21 bay thoát khỏi cuộc tấn công…

*     *     *

Bối cảnh trực tiếp tạo cảm hứng để Humphrey Hawksley và Simon Holberton thực hiện cuốn sách “Đòn Rồng” là thời điểm Trung Quốc bắt đầu trỗi dậy với sự kiện Trung Quốc tiến hành một loạt các cuộc tập trận lớn dọc bờ biển phía Đông năm 1996. Trước đó một năm, họ cũng đã gây ra một số cuộc đụng độ nhỏ ở biển Đông. Là cuốn sách giả định cho tương lai nhưng họ đã mô tả khá chi tiết những khả năng có thể xảy ra, chi tiết đến cả những diễn biến trên thị trường trường khoán khi cuộc chiến xảy ra, mối quan hệ chằng chịt và phức tạp giữa các quốc gia với tập đoàn xuyên quốc gia, các cá nhân ở các quốc gia đối đầu với nhau…

Cuốn sách cũng đã được một loạt các chuyên gia quân sự góp ý, hiệu đính, như: David Tait – cựu sĩ quan tác chiến của tàu ngầm tấn công HMS Opossum giúp vạch kế hoạch tác chiến của tầu ngầm diesel điện của Trung Quốc; John Myers, một cựu chỉ huy tàu ngầm hạt nhân kiêm chủ bút tờ tạp chí quân sự Jane’ Fighting Ships thẩm định; John Downing, cựu sĩ quan tình báo hải quân Anh…

Đương nhiên, kịch bản trên đã lạc hậu khi thời thế đã có nhiều thay đổi, khó lòng cho phép một cuộc tấn công toàn diện như vậy diễn ra và cũng khó lòng có một cuộc “dạo chơi” dễ dàng như vậy cho bất cứ thế lực nào muốn tấn công Việt Nam.

Mặt khác, các tác giả cũng đã đánh giá quá thấp năng lực cảnh giới của Việt Nam. Chưa kể, hệ thống mắt thần Việt Nam đã được hiện đại hóa đáng kể, đủ sức bao quát mọi động tĩnh trên biển Đông. Việt Nam cũng đã cũng đã sở hữu hệ thống radar chủ động cực kỳ hiện đại Kolchuka, có thể phát hiện cả máy bay tàng hình từ khoảng cách xa. Vì vậy, câu chuyện “hai chiếc Mig-21 cũ kỹ trên đường tuần tra về bị bắn hạ mà không phát hiện ra đối phương” là chuyện hết sức nực cười.

Về năng lực phòng không, bên cạnh lưới lửa phòng không dày đặc, Việt Nam cũng đã nâng cấp hệ thống lên lửa phòng không tầm trung SA-3 lên chuẩn S-125 Petrora, đủ sức chống lại mọi phương tiện bay hiện đại; các hệ thống phòng không S-300 hiện đại.

Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đã sở hữu hàng chục chiếc tiêm kích đa năng hiện đại thế hệ 4 và 4++ Su-27, Su-30.

Theo PHÁP LUẬT & ĐỜI SỐNG