Một số phím tắt thường dùng trong VS

Ctrl-X or Shift-Delete – Cắt mục được lụa chọn

Ctrl-C or Ctrl-Insert – Copy mục được lụa chọn

Ctrl-V or Shift-Insert – Dán

Ctrl-Z or Alt-Backspace – Quay lại một bước

Ctrl-Y or Ctrl-Shift-Z – Ngược lại với hành động trên

Esc – Đóng một menu, hủy bỏ một thao tác trong cửa sổ hiện thời.

Ctrl-S – Lưu một file hoặc một cửa sổ trong dự án mà bạn đang làm ( thông thường là cửa sổ bạn đang làm việc)

Ctrl-Shift-S – Lưu tất cả các tài liệu trong dự án

Ctrl-P – In tài mà bạn đang trình bày

F7 – Chuyển từ design view sang code view

Shift-F7 – Chuyển từ Code view sang Design view

F8 – Di chuyển con trỏ sang mục tiếp theo, nó được sử dụng trong cửa sổ TaskList hoặc trong cửa sổ tìm kiếm

Shift-F8 
– Di chuyển con trỏ sang trước đó, nó được sử dụng trong cửa sổ TaskList hoặc trong cửa sổ tìm kiếm

Shift-F12 – Tìm một reference tới mục đang được chọn hoặc mục tại vị trí con trỏ

Ctrl-Shift-G – Mở file với tên đang được chọn tại vị trí con trỏ

Ctrl-/ – Chuyển hướng đến hộp lệnh tìm kiếm trên thanh Standard

Ctrl-Shift-F12
 – Chuyển tới nhiệm vụ tiếp theo trong cửa sổ TaskList

Ctrl-Shift-8
 – Quay trở lại trong Browse History – Sẵn có trong đối tượng trình duyệt hoặc cửa sổ Class View.

Alt-Left Arrow – Quay trở lại trong khi duyệt Web

Alt-Right Arrow – Ngược lại với hành động trên, quay lại bước trước đó trong khi duyệt Web

THỊ XÃ RA QUÂN 2/1979

Thị xã ra quân

Thị xã mình sáng nay ra quân
Tháng Ba đang mùa hoa gạo đỏ
Những phố, đường đêm qua như chẳng ngủ
Thức dậy sớm hơn mọi ngày

Những nhà có con đi sáng nay
Lục tục đỏ đèn từ mờ đất
Hàng xóm hỏi nhau thân mật
– Phố mình sáng nay mấy đứa ra đi?

Không giống ông bà mình tiễn nhau xưa kia
Chỉ lặng im, bịn rịn…
Không giống mẹ tiễn cha thuở nào đi trận
Bâng khuâng, thèn lẹn, dặn dò…

Thị xã mình sáng nay tiễn đưa
Cái háo hức nhân lên, niềm vui chia để lại
Con trai con gái
Nghe họ cười, không đoán nổi ai đi…

Ngã ba phố mình thênh thang mọi khi
Sáng nay ứ dòng xe cộ
Sáng nay đò sang bến chợ
Nhường cho khách lên đường

Mậu dịch bách hóa mở sớm hơn ngày thường
Đông con gái vào mua bút, sổ
Chị bưu điện luôn tay, lòng cởi mở
Trao tập phong bì và những con tem
Thị xã rộn lên
Chẳng ai biết tiếng loa nhắc gì trong hội trường nhà văn hóa
Cứ nghe rôm rả
Chuyện quân ta chống trả giặc thế nào

Đêm qua đài đưa tin biên giới rất lâu
Từ hôm tổng động viên bao nhiêu lá đơn gửi về Thị ủy…
Biên giới trở thành thiêng liêng trong suy nghĩ
Tiếng súng kéo khoảng trời gần hơn…

Chưa bao giờ máu gửi nhiều theo những lá đơn
Chưa buổi lên đường nào tình nguyện đông như vậy
Sông Đà tháng ba – mùa hoa gạo cháy
Đuốc non sông hừng hực lửa căm hờn

Tiễn những người con lên phía biên cương
Có tình thương trong gói cơm của mẹ
Có dáng tiễn đưa còng lưng của bà
Có cuốn sổ lưu niệm chật lời bè bạn
hẹn gặp cùng trên biên giới xa.

Và ra đi sáng nay tháng Ba
Có chàng trai bỗng đọc to bài Bình Ngô đại cáo.

NGUYỄN THỊ MAI

Từ pháo đài Đồng Đăng đến đảo Gạc Ma

Cái chết đến từ từ với những người lính rút về cố thủ trong pháo đài Đồng Đăng năm ấy. Họ đã nghĩ gì, họ đã làm gì trong những ngách hầm tối tăm, ngột ngạt vào những giờ phút cuối cùng của cuộc đời mình?…

Tôi nhớ mãi cái lần đội mưa đi qua thành nhà Mạc rồi leo tiếp một triền dốc nhiều đá mồ côi khá chênh vênh nữa để đến với nàng Tô Thị. Nàng cõng con đứng đó, thời gian đợi chồng đã mấy nghìn năm, đằng đẵng những thiên thu mưa nắng nơi trập trùng biên ải. Mưa thấm lạnh và những đợt gió bấc hun hút thổi đến từ phương Bắc âm u gieo vào tôi nỗi buồn khó tả. Đây là lần đầu tiên, trong tôi có một xứ Lạng buồn, thật buồn bởi sự đơn côi đến hiu hắt trong dáng người đàn bà hóa đá đáy thắt lưng ong, tóc búi cao, ngực đầy căng, hơi lao về phía trước. Bàn chân chinh phụ đã chôn vào đá, qua thăm thẳm thời gian vẫn còn nguyên dáng kiễng chân vời vợi; thêm một tấc cao là thêm một dặm trông xa. Trông xa, trông mãi, trông hoài, người lính biên ải vẫn chưa trở về, người đàn bà thủy chung đã quyết hóa đá để được vĩnh viễn chờ chồng.

Vệt buồn rộng dài thêm, từ đó, từ đây, đến với một địa danh khác, liên quan đến bài bút ký Lạng Sơn, có một góc nhìn của tôi viết vào tháng 8-2001. Trong chồng bản thảo cũ của tôi vẫn còn lưu bài bút ký ấy và hôm nay, xin trích lại một đoạn:

Cửa hầm phía Đông của pháo đài được khai thông vào năm 2001. Nhẩm tính xem: Nó đã là 20 năm kể từ khi bị đánh sập bằng hàng tấn thuốc nổ. Cùng với các cửa hầm, các lỗ thông hơi của pháo đài sâu hàng chục mét cũng bị bịt kín bằng đất đá. Những lô cốt nổi bê tông cốt thép dày gần nửa mét cũng bị đánh sập, nứt vỡ toang hoác. Dấu tích chiến tranh chưa bị cây cỏ che khuất phơi ra giữa thanh thiên bạch nhật trông thật dữ dội.

20 năm, nó bị lấp kín và trong lòng pháo đài lạnh lẽo tối om là những bộ hài cốt của bộ đội và nhân dân ta. Dưới tầng đất sâu của một quả núi nằm giữa thị xã Đồng Đăng, trong những đường hầm chặng chịt có bao nhiêu thi hài liệt sĩ? Hình như, chưa ai trả lời được câu hỏi nhức nhối đó. Pháo đài Đồng Đăng do Pháp xây, nghe đâu đã gần trăm năm, vốn đã bí ẩn lại càng bí ẩn hơn…

Cánh cửa sắt mở ra. Chân đi ủng, đầu đội mũ nhựa bảo hộ, chúng tôi đi vào đường hầm pháo đài theo sự hướng dẫn của Binh nhất Đàm Quang Thuấn. Đường hầm hẹp, hai người đứng hàng ngang đã chạm tay nhau và mái uốn vòm cong cong chỉ cao hơn đầu tôi vài đề-xi-mét. Vách và vòm xây bằng xi măng, trải qua gần trăm năm đã nứt nẻ chằng chịt. Có cảm giác chỉ cần dậm chân mạnh thì những mảng vữa ẩm ướt nhiều cạnh đó sẽ rơi xuống đầu mình. Có tiếng gì u u u u… không dứt đoạn trong lòng pháo đài. Như tiếng gió tháng Chạp thổi qua hẻm núi hẹp. Hơi lạnh phả ra rờn rợn. Từ mặt nước bập bõm ở đáy hầm. Từ vòm mái bê tông có vô vàn những giọt nước đọng tí tách rơi. Hay từ đâu nữa, hơi lạnh cứ lặng lẽ phả ra làm da mặt chúng tôi se se lại…

– Sắp đến gian hầm thờ các liệt sĩ mình rồi đấy! – Anh Mát nói khẽ.

(Đỗ Xuân Mát vốn là Trưởng Văn phòng đại diện Công ty Việt Bắc, người trực tiếp phụ trách bộ đội khai thông pháo đài)

Rẽ vào một ngách ngang, chúng tôi đến gian hầm rộng chừng 16 mét vuông, cao tầm 2 mét. Thành và vòm hầm xây bằng xi măng và ít nứt nẻ hơn. Chỉ có một chiếc bàn gỗ đặt mấy bát hương chi chít chân nhang và cái giá gỗ hai tầng lưu giữ mấy hiện vật của người đã khuất. Súng AK. Dao găm. Băng đạn. Dép rọ nam. Dép lê nữ. Vài chiếc cặp tóc phụ nữ. Tất cả đã cũ kỹ, gỉ sét. Giọng anh Mát ngàn ngạt:

– Trong lúc làm nhiệm vụ, bộ đội chúng tôi tìm gặp 35 hài cốt liệt sĩ. Từ cửa Đông của pháo đài đi xuống 29 bậc gặp một ngách ngang có 12 hài cốt. Đây là những anh em đầu tiên chúng tôi tìm thấy trong pháo đài. Anh biết không, các bộ xương nằm theo những tư thế khác nhau. Người nằm nghiêng, người nằm ngửa, người nằm thẳng, người nằm co. Có bộ xương xếp theo tư thế của người lết, hai cánh tay vươn về phía trước. Những bộ xương nguyên vẹn, chứng tỏ anh em ta bị hi sinh vì ngạt thở và đói.

Cái chết đến từ từ với những người lính rút về cố thủ trong pháo đài Đồng Đăng năm ấy. Họ đã nghĩ gì, họ đã làm gì trong những ngách hầm tối tăm, ngột ngạt vào những giờ phút cuối cùng của cuộc đời mình?… Thì hãy nhìn vào những bộ hài cốt đồng đội với những khẩu AK xếp bên cạnh sẽ hình dung ra phần nào hình ảnh người lính trong giờ phút cận kề cái chết. Những người lính ấy đã làm tròn bổn phận của mình và cái chết của họ là sự ra đi oanh liệt của người chiến sĩ bảo vệ Tổ quốc…

Và tôi thiết nghĩ rằng…ít nhất nơi cửa hầm vừa được khai thông vào mùa xuân đầu tiên của thế kỷ hai mươi mốt phải có một bia tưởng niệm khắc rõ dòng chữ: “Tổ quốc ghi công những chiến sĩ và đồng bào đã ngã xuống trong cuộc chiến đấu bảo vệ đất nước năm 1979”.

Một tấm bia ghi ơn và nhắc nhở đời sau. Một địa chỉ viếng thăm của người lên xứ Lạng. Mọi cuộc chiến tranh đều được chép vào lịch sử. Ai hi sinh vì Tổ quốc đều phải được ghi tạc công lao…

Nỗi buồn của nàng Tô Thị là có thật, giống như nỗi buồn từ các cuộc chiến tranh đưa lại. Trong người đàn bà hóa đá ấy có nỗi đau mất mát, nỗi chờ mong của rất nhiều phụ nữ Việt Nam. Bao nhiêu thế hệ trai tráng đất nước này đã ngã xuống để gìn giữ cõi bờ non sông. Máu đã chảy thành sông, xương đã chất thành núi; sông núi Việt Nam là tài sản thiêng liêng vô giá không ai có thể xâm phạm lấy đi của ta dù chỉ là tấc đất, mét nước. Trong mọi giá trị làm người, giá trị công dân thì lòng yêu nước luôn ở vị trí hàng đầu và trước tiên.

Yêu nước, dâng hiến và xả thân cho Tổ quốc là nhân phẩm của con người. Tổ quốc trên hết, đấy không phải là câu nói đầu môi chót lưỡi mà là tình cảm, là hành động của mỗi chúng ta. Tôi nghĩ, chúng ta không đem lòng yêu nước, lòng tự tôn dân tộc đặt lên nòng súng để kích động chiến tranh xung đột, nhưng khi Tổ quốc bị xâm lăng thì đó là vũ khí, là năng lượng có khả năng bùng nổ rất lớn của dân tộc này. Lịch sử đã minh chứng điều đó, dân tộc Việt Nam đã từng chiến đấu và chiến thắng những kẻ thù mạnh hơn ta gấp nhiều lần về kinh tế và quân sự.

* *

*

Lại có những nỗi chờ mong khắc khoải không hóa đá. Biết người thân không về, không bao giờ về nữa mà vẫn canh cánh nỗi đợi chờ giống sự mộng du. Biển Việt. Sóng vun lên những luống mộ trắng xóa. Nói là sóng bạc đầu đã đúng nhưng hình như chưa đủ khi biết rằng trong trắng xóa, mặn mòi của sóng đang trú ngụ những linh hồn bất tử. Bất tử linh hồn những người dân, người lính còn quần tụ ở Hoàng Sa và ở những đảo nổi, đảo chìm của Tổ quốc.

Tôi đã không cầm được nước mắt khi xem bức ảnh Trung úy Đinh Ngọc Doanh chụp với con gái mình. Bố chụp ảnh với con gái yêu đâu phải là điều gì lạ lẫm. Có hàng nghìn, hàng triệu tấm ảnh như thế, đen trắng và màu mè, đủ cả trên trái đất này. Trước mắt tôi là gương mặt điềm tĩnh hiền lành của người sĩ quan trẻ bên cái vẻ rụt rè ngây thơ của con gái chừng ba, bốn tuổi. Bé gái đã vĩnh viễn mất cha từ buổi sáng 14-3-1988. Một cuộc chiến đấu khốc liệt giữa những người giữ đảo với đội quân ăn cướp lãnh thổ đã xảy ra trong buổi sáng ấy. Gạc Ma.

Hàng loạt đạn 37 ly của bọn xâm lược bắn xối xả vào những người lính chúng ta khi họ còn dầm chân trong làn nước biển mặn chát. Không có một bờ đất, mỏm đá che thân, không hề có một đoạn chiến hào công sự nào. Điểm tựa duy nhất của những chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam lúc ấy là lòng yêu nước, lòng tự tôn, tự chủ, tự hào dân tộc. Thế thôi. Những con người Việt Nam bé nhỏ mong manh đứng giữa bao la trời nước, giương cao cờ Tổ quốc, lấy nền đỏ sao vàng quấn vào mình, một tấc không đi, một li không rời với tinh thần Thà hi sinh chứ nhất định không rời đảo. 64 chiến sĩ của chúng ta đã hi sinh trong trận hải chiến không cân sức đó, những Trần Văn Phương, những Đinh Ngọc Doanh… đã ngã vào lòng biển Việt, ngã vào cõi bất tử thiêng liêng của dân tộc.

Những vòng hoa lênh đênh trên sóng sẽ trôi về đâu trong mêng mang mây nước? Những hương khói ngạt ngào trên biển mặn có lay thức được bấy miên man đang trôi nổi bồng bềnh? Tôi tin, các anh sẽ nhận được tấm lòng thành của người đang sống và tôi cũng tin rằng, vong linh những người đã ngã xuống vì chủ quyền của đất nước vẫn hằng mong điều cao đẹp, trong sạch ở chúng ta. Và, như vậy là các anh đang sống, sống đẹp giữa lòng dân tộc, như là cuộc phục sinh huyền diệu nhất, bền vững nhất của những người yêu nước.

Nỗi đau, đó là điều không chối cãi và ta cũng không giấu giếm. Thì lòng tự hào chính đáng, khí phách ngoan cường cũng là năng lượng dồn góp lại cho sự trường tồn dân tộc xưa nay. Sẽ sống mãi, sẽ sáng tỏa mãi tinh thần vì nước quên thân có từ bao đời nay trong lịch sử dân tộc.

Pháo đài Đồng Đăng năm 1979, đảo chìm Gạc Ma năm 1988, những dấu mốc, những địa chỉ anh hùng trong cuộc chiến đấu bảo vệ chủ quyền đất nước, không thể lãng quên, không thể chìm khuất.

Tất cả những ai vì chủ quyền đất nước mà ngã xuống đều phải được tôn vinh, ghi công xứng đáng!

NGUYỄN HỮU QUÝ (BÁO BIÊN PHÒNG)

Tổ quốc

Ôi Tổ Quốc ta yêu như máu thịt

Như Mẹ Cha ta, như vợ như chồng

Ôi Tổ Quốc khi cần ta chết.

Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông.

Nếu có một người đàn ông yêu bạn thật lòng

*Nếu có một người đàn ông yêu bạn thật lòng, anh ấy sẽ tự hào
giới thiệu bạn với bạn bè và người thân rằng: bạn là người
anh ấy yêu nhất.

*Nếu có một người đàn ông yêu bạn thật lòng, anh ấy không chỉ
nói bằng miệng mà luôn dùng hành động đ
ể nói với người khác:
bạn là người phụ nữ anh ấy yêu nhất. Vì có bạn, anh ấy cảm thấy rất kiêu ngạo, cho dù bạn phải là người ưu tú hay không.

*Nếu có một người đàn ông yêu bạn thật lòng, ngoài lúc dành cho công việc, thời gian còn lại anh ấy
luôn dành cho bạn, bất cứ lúc nào anh ấy cũng muốn nhìn thấy bạn.

*Nếu có một người đàn ông yêu bạn thật lòng, anh ấy tuyệt đối
không nặng lời với bạn, dù bạn làm cho anh ấy bực bội, anh ấy
cũng chỉ nhẹ nhàng nhắc nhở mà thôi.

*Nếu có một người đàn ông yêu bạn thật lòng, bạn sẽ phát hiện
thấy anh ấy luôn đi sau bạn, không phải để theo dõi mà là anh
ấy muốn đi sau để che chở, bảo vệ bạn.

*Nếu có một người đàn ông yêu bạn thật lòng, anh ấy sẽ không
lưu luyến trước bất cứ lời đường mật nào khác, vì hình ảnh bạn
luôn trong trái tim anh ấy.

*Nếu có một người đàn ông yêu bạn thật lòng, sau một ngày làm việc vất vả anh ấy sẽ trở về ôm lấy bạn nói “Em yêu, anh đã về”.Anh ấy yêu bạn, anh ấy không thể
không đem niềm vui đến cho bạn.

*Nếu có một người đàn ông yêu bạn thật lòng, anh ấy sẽ không lấy lý do bận việc mà giành cho bạn quá ít thời gian.

*Nếu có một người đàn ông yêu bạn thật lòng, anh ấy sẽ yêu
những người trong gia đình bạn giống như yêu những người
trong gia đình anh ấy, cũng sẽ tôn trọng người thân và bạn bè của bạn như tôn trọng chính bạn vậy.

*Nếu có một người đàn ông yêu bạn thật lòng, anh ấy sẽ mãi
không thay đổi điều thật lòng này cho dù bao năm tháng qua, đã có lúc anh ấy thấy mệt vì sự đỏng
đành khó chiều của bạn.

BA LẺ MỘT

Tác giả : Bảo  Ninh

Mặc dù là truyện ngẫu nhiên nhưng mà có lẽ chả phải là truyện tình cờ . Bởi nếu không thì chúng tôi đã lướt về tới Nha Trang mới dừng chứ chả nghỉ vặt lại làm gì dọc đường . Và xe sẽ không đỗ đúng ngay trước cửa tiệm cà phê đầu thị trấn . Cũng sẽ không phải là bài hát ấy cất lên . Không nghe thấy bài hát ấy tôi đã không buồn bước chân vào tiệm .   Tôi vào thì băng nhạc ngắt , nhưng rõ ràng là tôi đã nghe một bản quân ca chứ tuyệt nhiên không phải là những cái thứ nỉ non nhão nhoẹt đặc sản của hầu hết các quán xá phố huyện trong thời buổi văn minh ướt át này .
“ Lêkima “ , tên tiệm như vậy , trên tấm biển gỗ sơ sài . Một nhà gác nhỏ , hai tầng , mái ngói xạm mầu rêu . Quầy cà phê ở tầng trệt , gian giữa , nhưng chỗ của khách ở ngoài vườn . Một ai đó lúi húi sau quầy , tôi lên tiếng chào , gọi một tách đen và qua cửa sau đi xuống vườn .
Gió chiều lộng thổi , dào dạt sóng lá . Vườn rộng , xanh ngát , vú sữa và lêkima . Bàn ghế bằng mây kê rải rác dưới vòm cây xum xuê , bên những lối đi rải sỏi . Giờ này các bàn đều bỏ trống . Cả khu vườn chỉ một mình tôi với tiếng chim hót ríu rít trên cành .Đợi anh tài xế sửa xong xe chắc là còn lâu . Không chừng có thể làm được một giấc . Tôi thoải mái ngã người vào lưng ghế , nhắm mắt lại .
– Dạ thưa , cà phê của ông .
Tôi không nghe thấy bước chân đàn bà ấy . Rất khẽ chị ta đi tới , thật nhẹ để khay cà phê lên mặt bàn và se sẽ cất tiếng . Trên chiếc khay gỗ bày một bộ đồ uống cà phê kiểu đã xưa , rất đẹp , đĩa và tách bằng gốm , men màu lam vân trắng , phin và thìa mạ bạc . Thoang thoảng , đầm đậm hương thơm đặc trưng của cà phê , trè Buôn Ma Thuột .
–   Gia đình ta có khu vườn tuyệt quá – Tôi nói , bầy tỏ sự hài lòng và nỗi khoan khoái .
–   Dạ , cám ơn ông – Người đàn bà nói nho nhỏ , giọng Nam êm như nhung , lễ phép và dịu dàng – Xin mời ông bữa sau ghé lại tiệm chúng tôi , dùng cà phê , ngoạn cảnh chiều .
–   Ồ vâng , dĩ nhiên . Nếu như còn có một dịp thứ nhì .
–   Thưa , thị trấn này , ông mới một lần đầu ngang qua ?
–   Vâng . Cũng gần như là lần đầu . Lần trước đã lâu lắm rồi . Đã hai mươi năm . Vả lại , ngày đó , thời cuộc gấp gáp , chúng tôi chỉ tiến ào qua , chỉ được vài phút dừng chân chốc lát .
Tôi có cảm giác người đàn bà như chợt sững đi vì điều tôi vừa nói .
Tôi nhìn chị . Có thể đoàn rằng tuổi chị đã gần bốn mươi , mặc dù chắc là chưa đến như vậy . Gương mặt gầy yếu , xanh xao , song vẫn còn giữ được nét đẹp phảng phất . Tôi ưa cặp mắt của chị , mở to , đượm buồn .
Gặp ánh mắt của tôi , chị ngại ngùng nhìn tránh đi , và không nấn ná thêm nữa , lặng lẽ quay vào nhà . Tôi nhìn theo . Bỗng đâu một cảm giác phi lí nhen lên , choán lấy tôi . Chẳng cần lục lại trí nhớ , tôi biết và chắc chắn là trước đây chưa từng bao giờ gặp chị ta , và chắc chắn là chưa từng quen ai có nét thoảng giống chị , thế nhưng lại cũng hoàn toàn chắc chắn như vậy tôi cảm nhận được ở chị một sự quen biết , thậm chí một tình thân mến , từ xưa . Tình thân ấy mang máng đâu đây trong buổi chiều nay giữa khu vườn này . Tôi lắng nghe và tôi nhìn xung quanh , nhìn lên cao . Bên ngoài các vòm lá , bầu trời đã ngả mầu hồng . Ngày đã tàn , thời tiết vẫn đẹp , càng đẹp hơn trước . Những đám mây cao và thưa nhẹ nhàng lướt trôi , mỏng dần và tan ra
Trong vườn , những ngọn gió khi lặng đi lúc lại dậy lên như cao trào của một bản nhạc . Một chiếc lá vú sữa nửa màu xanh nửa màu nâu nhạt bứt khỏi cành rớt xuống bên tách cà phê đang nhè nhẹ tỏa hơi . Chiếc thìa bạc kêu lanh canh . Lòng tôi xao xuyến lạ thường . Bỏ dở tách cà phê , tôi đứng vội dậy , rời bàn . Nóng lòng tôi muốn ngắm lại một lần nữa kĩ hơn dung nhan thân thuộc của người đàn bà không quen .
Không có ai trong nhà khi tôi từ ngoài vườn đi vào . Tôi tới bên quầy . Trên quầy để một máy quay băng , mấy trái xoài tượng , một cái bình xay sinh tố , các thẩu đường , những lọ cà phê và một hộp kính xếp đầy những giỏ thuốc lá . Ở trong góc tối phía sau quầy , trên tường treo một bức tranh . Tuy nhiên nhìn kĩ tôi lại thấy không phải là một bức tranh mà là một bức ảnh , được phóng to , lồng trong khung kính . Trong ảnh là một chiếc xe tăng . Và không phải M48 . Vì khuất tôi không nhìn được rõ nhưng tôi vẫn nhận biết rõ ràng dáng vóc một chiếc T54 um tùm cành lá ngụy trang . Vòng ra sau quầy , tôi lần tìm công tắc , bật đèn lên . Ánh điện bừng sáng và tim tôi như ngừng đập . Toàn , Trung và Chí , ba khuôn mặt ấy ngay trước mắt tôi . Hình đen trắng , khi chụp hơi bị ngược sáng lại đã úa vàng vì năm tháng nên nom không được nét , song chả còn hồ nghi gì nữa , đúng là họ , và đúng là nó , xe 301 . Đầu quấn băng , AK buông thõng trước ngực , Toàn ngồi trên nóc xe ,ôm lấy khẩu 12 ly 7 , hai người kia bá vai nhau ngồi tựa vào sườn tháp pháo . Số xe khuất sau lưng họ , chỉ ngôi sao lộ ra . Cả ba anh em đều còn rất trẻ , còn rất  non nét mặt và dường như vậy mà có vẻ kém ăn ảnh , nhân dạng phần nào mờ nhòa , tuy nhiên bởi đều đã vào ảnh với nụ cười nên cả ba gương mặt đều như tự bừng sáng . Xúc động , cổ nghẹn lại , tôi run rẩy khắp thân mình , hồi lâu không sao trấn tĩnh được .
Nghe tiếng guốc đi xuống cầu thang song tôi không rời mắt khỏi bức ảnh . Người đàn bà tới bên quầy . Ngoài cửa ánh sáng chiều đã tắt . Căn phòng im ắng . Từ cõi nào xa xăm vọng đến tiếng còi tàu hỏa . Lát sau đoàn tàu rùng rùng băng qua cung đường gần thị trấn . Mặt đất nhè nhẹ rung lên . Chiếc đồng hồ treo tường thong thả đổ chuông . Tôi nhớ đến khúc quân ca nghe được lúc chiều khi vừa dừng xe . Thì ra …
Lòng khắc khoải bao nhiêu ý nghĩ và điều phỏng đoán , tôi chậm rãi xoay mình lại , đối diện với người đàn bà . Chị chống khuỷu tay lên quầy , áp mặt vào hai bàn tay . Một gương mặt thanh tú và khiêm nhường , một dung nhan dẫu tàn lụi đi mà không hề tàn héo , đôi mắt dịu hiền , rất to , lặng nhìn tôi .

–   Chị biết không , thật kì lạ – Tôi nói , giọng ngập ngừng – Chiếc xe tăng trong bức ảnh kia chính là chiếc xe tăng của tôi , ngày xưa .
–   Ơn trời – Chị thầm thì – Thế là cuối cùng các anh đã trở lại . Bởi vì anh đã đổi khác quá nhiều so với anh trong hình nên em không nhận liền ra anh . Nhưng anh à , bao năm qua , từ ngày đó đến giờ , em vẫn một lòng tin rằng nhất định các anh sẽ còn trở lại .
Ngày đó , năm 1975 , buổi sáng cuối cùng của  tháng Ba . Thị trấn bờ biển chiều tối hôm qua còn nghẹn ứ một biển người vậy mà sáng ra đã hoàn toàn trống rỗng .
Không ai ngờ thời cuộc lật nhanh đến thế . Vừa mới phong phanh tin thất thủ Buôn Ma Thuột , còn bán tín bán nghi , đã nghe mạn Khánh Dương tiếng đại bác rền vang . Nguời từ cao nguyên chạy xuống ban đầu thưa thớt , về sau kìn kìn . Người ta bảo rằng quân dù đã được điều về giữ đèo Ma Đơ Rắc , họ sẽ chặn đứng Việt Cộng và rồi sẽ tái chiếm Đắc Lắc chỉ trong ngày một ngày hai . Nhưng chỉ trong ngày một ngày hai , vụ di tản chiến thuật đã trở thành cơn giãy chết vĩ đại . Thị trấn ngã ba nghẹn cứng hai luồng chạy loạn khổng lồ ập về theo hai ngả , quốc lộ 1 và quốc lộ 21 . Phố biển muôn thửơ bình yên ngập chìm trong khói bụi và hoảng loạn . Mặt đường đen đặc người và xe . Xe đò và xe nhà binh , đồ đạc và chiến cụ , dân thường bỏ quê hương và lính tráng vỡ mặt trận , như lũ lụt tràn bờ , như trời long đất lở . Gần cả tháng trời thị trấn triền miên trong quang cảnh đầy thú vật của cuộc đại bại . Chen chúc , xô lấn , giày đạp , chà xéo , đánh nhau , giết nhau , cưỡng hiếp và cướp bóc . Đến cuối tháng thì thật sự những ngày tận thế . Phòng tuyến trên đèo tan vỡ . Các Thiên thần mũ đỏ còn sống sót ôm đầu máu tháo chạy . Có những toán đông nghìn nghịt súng ống còn trong tay mà không còn giày , không còn áo , trần thùi lụi như đàn đười ươi ồ ồ tràn qua thị trấn . Tất cả đều đã điên lên vì khiếp sợ . Chạy , chạy và chạy . Muốn sống thì chạy đi . Mạnh ai nấy chạy . Giành đường mà chạy , dẫm lên nhau mà chạy . Tiền pháo hậu xung , đại bác quân Bắc Việt sẽ san bằng thị trấn . Chiến xa quân Bắc Việt sẽ cán nát tất cả . Và bộ binh Bắc Việt khi xung phong vào sẽ giết nốt , sẽ giết hết , giết tuốt mo , giết không còn một mống .
Buổi trưa , phi cơ từ biển ào vào bổ nhào ngay trên đầu thị trấn trút bom xuống Dục Mỹ để cản đường địch quân . Nhưng trận chiến vẫn từng giờ một xích gần lại . Cửa kính rạn vỡ , vôi vữa rơi lả tả . Chập tối , đạn pháo hú vang , từng loạt , từng loạt nã vòng qua thị trấn rót dọc xuống mép biển . Nửa đêm tiếng nổ thưa dần và tinh mơ thì bặt hẳn . Hừng đông mong manh chuyển dần sang buổi ban mai và ở xa thẳm ngoài khơi vừng dương đã nhô lên mặt biển . Trên bờ , ở ngôi nhà đầu thị trấn , ông chủ hiệu ảnh Lêkima và cô con gái của ông ngồi lặng im trong bóng tôi . Bên ngoài , ánh mai hồng ngời rạng , trong nhà tối như hũ nút . Cửa đóng then cài .
Cả hai cha con không chợp mắt , thao thức nghe tiếng sấm sét của quân đội cách mạng và nghe những hậu đội cuối cùng của quân Sài Gòn huỳnh huỵch tháo chân chạy qua trước cửa . Nỗi lo âu cồn cào nhức nhối ruột gan . Hồi giữa tháng khi còn có thể ra đi người cha lại chùng chình nghe ngóng , tiếc nhà tiếc vườn , tiếc kế sinh nhai
Tới lúc không thể do dự thêm được nữa thì cũng là lúc cảnh tượng của cuộc tùy nghi di tản trở nên quá độ kinh hoàng . Cô con gái xin cha để cô được ở lại . Thà chết còn hơn là phải dấn thân vào một lộ trình dã man đến như vậy . Hai cha con náu mình trong nhà . Bọn lính cướp phá tan hoang hai bên hãng xóm nhưng may phúc làm sao chúng chưa xông vào hiệu ảnh . Chúng bắn tấm biển Photo Lekima nhưng chưa bắn vỡ tường và chưa làm sập nhà . Tuy nhiên , nếu tình trạng hỗn mang kéo dài thêm nữa bọn kẻ cướp sẽ không bỏ qua ngôi nhà này . Nhưng mà nếu chúng biến đi thì họ sẽ vào . Họ vào thì trời ơi , sẽ ra sao ?
Trời đã sáng hẳn . Hình như có tiếng vạn vật thức giấc . Ì ầm như  sóng biển xô bờ . Nhưng mà chẳng phải tiếng sóng . Tiếng động mới mẻ , xa xôi mơ hồ ấy không tắt mà cứ lớn dần lên và loang rộng ra .Rồi bỗng nhiên tất cả rung lên . Đất trời như rạn nứt .
–   Trời đất ơi , chiến xa ! Tránh xa cửa , con ơi !
Tiếng kêu khiếp đảm bị tiếng gầm của động cơ xe tăng nuốt đi .

Chiếc thứ nhất rồi chiếc thứ hai , thứ ba … mũi đột phá xe tăng gần chục chiếc , T54 và K63 , như một cơn lốc bằng thép xé mặt lộ lướt tới với thần tốc kinh hồn , là phẳng mọi chướng ngại vật trên đường , nhằm hướng nam truy kích . Nhà cửa rung giần giật
Cả thị trấn điếng hồn , choáng đi trong tiếng rít của xích thép hòa lẫn với hơi dầu xả phùn phụt , tiếng tháp pháo nghiến ken két .Mặt đường tóe lửa , nứt ra , rền vang như gang vỡ .
Thị trấn được giải phóng trong vòng không đầy năm phút đồng hồ . Đoàn xe tăng lao tới , tràn qua và mau chóng mất hút phía trời nam . Sấm vang chớp dật rồi tất cả lại trở về trong buổi sáng mai êm ả dưới bầu trời trong xanh , cao vòi vọi miền duyên hải
–   Nhưng mà hình như họ ngừng . Họ ngừng rồi ! Hình như ngay trước nhà mình đấy , con ơi !
Mà họ dừng lại thiệt , trời ạ ! Chỉ một chiếc nhưng mà tắt máy dừng ngay trước thềm  Nghe  huỳnh huỵch tiếng chân từ trên xe nhảy xuống đất . Những giọng xứ Bắc , nói oang oang . Họ to tiếng quát nhau . Rồi lại nghe rộ lên tiếng cười . Rồi choang choang tiếng gõ đập . Tò mò , quên cả sợ , cô gái tới bên cửa sổ vén màn nhìn ra . Thình lình , chiếc tăng rú lên , phụt khói đen ngòm , rồi như bị sặc nó nấc lên và tắt ngóm . Lại ồn lên tiếng quát tháo , tiếng la lối bực bõ . Nắp xe mở ra đóng vào sầm sầm . Mấy phút sau , xe khởi động lại . Cô gái bưng lấy tai . Nền nhà rung nảy . Không khí khét nồng mùi khói ma dút . Khi cô bỏ tay ra thì tiếng gầm gào hung dữ đã ngừng bặt , thế nhưng cô lại nghe những tiếng bước chân đi lên thềm . Cha cô mặt tái mét , vội vội vàng vàng bỏ trốn lên gác . Khiếp hãi , cô đứng nép vào góc . Tiếng gõ cửa dẫu dè dặt vẫn chẳng khác nào súng bắn . Những giọng nói từ bên ngoài ngưỡng cửa vẫn vọng vào rõ mồn một .
–   Có ai đâu nào . Bác phó nháy nhà này hẳn là đã cao chạy xa bay .
–   Nhưng tớ đảm bảo là vừa nãy tớ thấy thoáng có người từ cửa sổ nhìn ra mà lị . Để tớ tông cửa vào xem nào . Hay đấy là một thằng dù .
Sợ hết hồn nhưng không còn cách nào khác , cô gái đành khe khẽ thưa lên và đi nhanh tới bên cửa sổ , mở khóa rồi nhấc then ra . “ Xin kính chào quí ông “ , cô lí nhí
Hai ông ngoáo ộp đứng choán trước cửa tươi tỉnh cất tiếng chào đáp . Lần đầu tiên trong đời cô gái thấy tận mắt Việt Cộng . Một người vóc dáng cao lớn , đầu húi cua , súng đeo trễ trên vai , tay xách một cái can nhựa , người kia gầy gò , nhỏ thó , đầu quấn băng , súng lăm lăm trong tay . Cửa mở , thấy cô , anh ta vội chúc họng súng xuống . Bàn tay , gò má và bộ đồ trận của cả hai đều ám khói .
Họ nói xe họ bị sự cố phải dừng sửa , giờ sửa xong rồi , nhưng vì cạn hết nước uống nên trước khi xuất kích còn phải làm phiền gia đình một chút , mong thông cảm . Họ gọi chị xưng chúng tôi , lễ phép , nhã nhặn , gần như khách sáo khiến cô gái trẻ vừa bối rồi vừa phần nào cảm thấy an lòng . Cô mời họ vào . Cô bảo sau nhà có bể chứa nước mưa xin để tùy quý ông dùng , lấy bao nhiêu cũng được , tắm gội nữa , tha hồ .
Nhưng họ nói chỉ xin nạp một can đủ dùng thôi , chứ tắm táp gì được , thời gian không có , vả chăng sạch sẽ mấy ngồi vào xe thì chỉ một lát là lại đen nhẻm . Những người lính này mặc dù súng ống lịch kịch , mặc dù bụi bặm và nhàu nhĩ , thế nhưng chẳng hề có vẻ lính tráng như cô vẫn thường thấy . Cô thấy họ rất lành , không sục sạo , không ngó nghiêng và không một mảy may lỗ mãng . Lấy đầy can nước rồi , tuy rất vội , họ không sùng sục bỏ đi ngay mà tế nhị ngồi nán lại vài phút bên bàn , từ tốn nhấp tách trà cô mời , ân cần hỏi han , trò truyện .
Chỉ là theo phép lịch sự nhưng rất mực thân tình . Họ khen đám vườn của cô tuyệt đẹp , khen cơ ngơi của cô trang nhã , khen trà cô pha ngon , khen những bức ảnh mẫu bày trong tủ kính . Họ nói không lâu nữa đại quân sẽ trẩy qua đây , bộ binh , xe pháo nườm nượp , nhưng đừng có sợ hãi , cứ thoải mái , cứ mở cửa tiệm , giữ lấy nếp sinh hoạt bình thường như mọi ngày . Đà tiến của quân ta sẽ mau chóng giãn tầm phi pháo của địch ra xa thị trấn này . Vả chăng , rất có thể chiến tranh sắp kết thúc . Không chừng ngay trong năm nay , thậm chí ngay trong mùa khô này cũng nên , biết đâu đấy , chúng tôi sẽ tiến thấu được đến mũi Cà Mau .
–   Hết được chiến tranh rồi sẽ sung sướng biết bao – Anh lính nhỏ người , đầu quấn băng , ngả người ra lưng ghế , khẽ thở dài – Không còn bọn Mỹ , không còn bọn ngụy , không bom không pháo , đất nước thống nhất hòa bình , dẫu chỉ được sống chọn một ngày như vậy thôi rồi chết cũng đáng .
–   Nói cái gì thế cái cậu này ! Cậu chỉ được độc cái tài nói gở thôi à ? – Người kia nhăn mặt , khẽ gắt .
–   À , là nói thế . Chứ chết sao được . Đã đến ngày khổ tận cam lai mà lại chết thì thật hoài . Phải gắng sống để hưởng hồng phúc của thái bình chứ . Mai này , khi đã tàn trận mạc , tôi sẽ rời tay lái xe tăng chuyển ngành sang làm tài xế quốc doanh , vi vu dọc ngang cho đến già trên các ngả đường , ngắm Chủ nghĩa xã hội , ngắm đồng ruộng núi sông trời bể nước Nam cho đã bao năm ròng tút hút rừng sâu . Và nhất định năm nào tôi cũng sẽ qua đây , dừng thăm ngôi nhà này , thăm người quen hôm nay .
Không hoàn toàn hiểu những điều họ nói , cô gái ngồi im , khép nép , thỉnh thoảng khẽ dạ thưa , mắt nhìn xuống . Tuy nhiên , cung cách hiền hòa dễ mến của hai người khách  đã làm vợi đi nỗi lo sợ . Tâm trạng căng thẳng trùng xuống , hầu như chẳng còn chút nào mối dè chừng và sự thủ thế . Thậm chí không còn lấy một mảy may ác cảm . Tự cô cũng thầm lấy làm lạ về sự nhẹ dạ của mình . Bao nhiêu những định kiến đã thấm sâu vào tâm trí , tưởng chừng bất biến , vậy mà cô đã rứt bỏ nhẹ nhàng như thể trút bỏ một tiếng thở phào . Chẳng những không hề là những tên cuồng sát , thấy người là giết thấy nhà là đốt , hai người lính này cũng không giống những nhân vật rắn như đanh , lòng dạ gỗ đá , đầu óc cứng nhắc , mặt mày thì khắc nghiệt , cử chỉ thì thô bạo , miệng lưỡi thì cục cằn , phách lối được gọi là Việt Cộng mà cô vẫn hàng ngày nghe thấy trên đài phát thanh và đọc thấy trên sách báo . Tuyệt nhiên chẳng có vẻ gì là một cuộc tẩy não , họ nói năng nhẹ nhàng mà thân ái , vui vẻ nhưng đúng mực , giữ lễ xã giao chủ khách .
Nhìn những vật dụng trong phòng , nhìn gói thuốc với hộp quẹt cha cô để trên bàn , cái gạt tàn đầy đầu mẩu , cái áo khoác đàn ông trên mắc áo , hẳn hai người lính Việt Cộng thừa biết hiện nay trong căn nhà này không chỉ có mình cô , song họ không hề căn vặn . Họ hỏi thăm song thân cô song thấy cô ngập ngừng họ không gặng . Thật tình cô không sao hiểu nổi nguyên do của nỗi ghê khiếp cộng sản đã ám ảnh và chế ngự cuộc sống của cha cô cũng như bao người khác nữa ở thị trấn này . Có cái gì thật vô lý và tức cười trong thái độ tột cùng hoảng hốt của cha cô khi nãy . Khiếp sợ đến nỗi bỏ cả con gái đấy để chốn chạy . Cô hình dung lúc này đây cha cô mặt mày xanh xám , náu mình trong một góc tối om trên gác , run cầm cập chờ tiếng chân Cộng Sản sầm sầm bước lên cầu thang .
Nhưng những người cộng sản còn đang bận công truyện của họ , Họ nhìn đồng hồ , thốt kêu lên , rồi vội vã đứng dậy , đeo súng lên vai , vội vội xin cáo từ và một lần nữa xin cảm ơn sự giúp đỡ của gia đình . Họ bắt tay cô .
Một người chỉ nắm nhẹ rồi buông ngay . Nhưng người kia giữ lại lâu hơn bàn tay nhỏ nhắn mềm dịu của cô trong bàn tay thô ráp của mình , lắc nhè nhẹ , và noi :
–   Bọn anh là bộ đội chứ nào phải quý ông . Mai này gặp lại nhau nhớ đừng gọi bọn anh như vậy nữa . Nhớ nhé . Bọn anh nhất định sẽ trở lại . Anh sẽ chẳng bao giờ quên nơi này , chẳng bao giờ quên buổi sáng hôm nay . Buổi sáng hôm nay , quê hương em giải phóng , em hãy nhìn xem , đất trời tươi đẹp biết bao . Còn anh thì anh coi hôm nay là ngày đầu tiên sau bao năm trời xa cách được trở về quê hương . Quê anh ở bờ biển Quảng Ninh nên hễ cứ nơi nào bờ biển cúng đều là quê nhà . Vậy nên anh và em chúng mình là đồng hương duyên hải đấy .
Hai người buông tay nhau . Người lính chạy ra xe , cô gái đi vội vào nhà rồi lật đật chạy ngay ra , trên tay cầm chiếc máy ảnh . Xe tăng đã nổ máy , gầm lêm điếc óc , nhưng chưa lăn xích . Cô gái chạy xô tới đầu xe , hươ náy ảnh lên . Chiếc tăng dường như ngần ngừ do dự , động cơ vẫn rền rền song có vẻ dịu xuống . Nắp tháp pháo bật mở , lần lượt hai người từ lòng thép chui ra . Người thứ ba từ cửa buồng lái . Anh ta không tắt động cơ . Chiếc tăng rầm rầm nổ náy tại chỗ như hối thúc .
Cô gái không ham nghề ảnh nên rất ít khi rờ đến máy  và chưa bao giờ cô thay cha chụp hình cho một người khách nào . Cô nhỏ bé , yếu ớt và run rẩy trước khối thép đồ sộ đang hừng hực phả hơi nóng và rung lên giần giật . Phải bặm môi lại , gần như vận hết can đảm và lấy hết sức bình sinh cô mới bấm máy nổi . Không may , sáng hôm đó , cuộn phim trong chiếc Canon chỉ còn một kiểu . Bấm xong cái tách , hết phim . Sững người ngó chiếc máy , dường như mãi mới chợt hiểu , cô sực tỉnh , hớt hải kêu lên muốn át tiếng máy bảo bốn ông khách gắng chờ để cô vào nhà lấy máy khác chụp tiếp .
Nhưng khi cô ôm chiếc Kodak chạy lao ra , xe tăng đã gầm lên , tốc bụi mù mịt , chồm mạnh tới và lập tức lao xộc đi như thể chạy trốn cô . Cô đứng khựng lại giữa lòng đường . Chiếc T54 nhỏ dần , mặt đường vẫn rung chuyển nhưng tiếng gầm của động cơ nghe không còn hung dữ nữa , và càng lùi xa chiếc tăng nom càng hiền đi , trông giống như một lùm cây xanh , rung reo trong gió và lấp lánh trong nắng .
Những ngày giông tố qua mau , cuộc đời lật nhanh sang trang khác . Nuối tiếc kiếp xưa , nhiều kẻ quyết lòng trốn chạy khỏi quê hương , lên thuyền vượt biển , trong số họ có ông chủ hiệu ảnh . Cô con gái của ông một mình ở lại với ngôi nhà và vườn cây lêkima . Hiệu ảnh tuy còn đó , song không nhận chụp , chỉ mở thế để chờ trả ảnh cho khách cũ . Ngày lại ngày từng đoàn bộ đội trên đường hồi hương đã đi ngang qua thị trấn , thế nhưng chẳng ai dừng chân lại lấy ảnh . Nhiều năm trôi qua , khi mà ngay cả những người lính được giải ngũ sau chót cũng đã về đến quê nhà , bức ảnh chụp cỗ chiến xa vẫn mãi mãi là một tấm hình vô chủ .
Thời gian thấm thoát như thoi đưa . Cô gái trẻ măng ngày ấy đã thành thiếu phụ , lập gia đình , có con . Đời sống gian nan khắc khổ kéo dài suốt mười mấy năm trời sau chiến tranh khiến chị mau già . Chồng chị đã sớm từ giã phố nghèo để tìm vào Nha Trang kiếm kế sinh nhai dễ dàng hơn . Các con chị lớn lên cũng lần hồi đi hết . Rất muốn theo chồng con nhưng chị lại không muốn rời bỏ thị trấn . Đành lại một mình thui thủi một mình với ngôi nhà , chật vật sống tựa vào mảnh vườn . Trong nhà chẳng còn dấu tích nào nữa của hiệu ảnh , ngoại trừ tấm hình chụp chiếc chiến xa , chưa người tới nhận , ngày một úa vàng .
Ngày lại ngày , năm này qua năm khác , ngôi nhà xưa cũ vẫn đấy , mòn mỏi bên rìa lộ , như âm thầm ngóng trông một điều gì đó , không biết là điều gì , rồi sẽ đến trong dòng thời gian đang đều đều trôi chảy ngược xuôi không cùng tận trên đường . Cuối cùng thì cái sự kiện mơ hồ được bền bỉ ngóng trông ấy dường như đã thực sự bước qua ngưỡng cửa .Một trong những chủ nhân của chiếc xe tăng đã nhận ra chiếc xe tăng của mình .
Chỉ có điều , người đàn bà chủ tiệm cà phê đã lầm : Tôi không phải là một trong những người mà chị ngóng trông . Mặc dù là xạ thủ 12 ly 7 trên chính chiếc xe tăng trong ảnh , tôi không hề có mặt trong ảnh .
Đã trót lọt qua những trận chiến ác liệt trên đèo Ma Đơ Rắc , đã an lành vượt qua Dục Mỹ , tôi lại để bị thương ở cây số cuối cùng của đường 21 . Và ngu ngốc làm sao , lính xe tăng mà lại bị đốn bởi đạn súng trường . Chỉ độc một phát , bắn tù mù trong đêm tối , nhưng đúng lúc tôi nhoài nửa người khỏi cửa xe .Vết thương không nặng nhưng đủ để loại nhau ra khỏi vòng chiến hơn chục ngày trời .Nằm được mười ngày , tôi ôm vết thương tếch khỏi bệnh viện , nhặt một chiếc xe zép lùn nằm quăng bên vệ đường , lái hết tốc độ rượt theo vết xích xe tăng . Nhưng vào giai đoạn hành quân thần tốc ấy chậm một giờ là lỡ cả đời , huống hồ tụt hậu mất mười ngày như tôi .
Đuổi theo vết xích của 301 , tôi phóng ô tô qua Ninh Hòa , Nha Trang , Cam Ranh , rẽ đường 11 lên đèo Ngoạn Mục , rồi qua Di Linh , Đức Trọng về Bảo Lộc , về Lộc Ninh , và ngoặt gấp sang đông nhằm hướng Sài Gòn . 30 tháng Tư vẫn theo vết xe tăng , tôi qua Lăng Cha Cả vào phi trường Tân Sơn Nhất . Nhưng 301 của tôi hình bóng đã mịt mù nơi đâu trong buổi chiều mưa rơi ngày đại thắng .
Tôi đã trở lại Lăng Cha Cả , trở lại Cầu Bông , trở về tận Phan Rang , địa danh của những trận tử chiến bằng xe tăng trên đường tiến đánh Sài Gòn . Nhưng trời đất bao la , mặc cho tôi bền bỉ theo đuổi , 301 vẫn mãi mãi xa khuất khỏi tầm mắt của tôi .
Và như thế là đã hai chục năm trời rồi theo đuổi vô vọng cho tới buổi chiều hôm ấy .
Chẳng phải sự tình cờ , mà là một sự run rủi tuyệt vời của định mệnh đã khiến tôi bước vào vườn cây lêkima bên bờ biển Khánh Hòa . Cuộc đời có hậu đã cho tôi , một số phận lẻ một , khi đã luống tuổi , lúc đã xế tà vẫn còn đuổi kịp đà tiến công vũ bão của thời thanh xuân  để gặp lại được số phận chung bốn anh em .
Chiều hôm ấy , trước bức ảnh xe tăng 301 , người thiếu nữ năm xưa , vụt sống lại với buổi bình minh của đời mình , đã không cầm được nước mắt . Và tôi cũng vậy , sau hai chục năm trời , lệ chiến tranh lại tràn mi .