Lịch sử ra đời Ngày thương binh liệt sỹ 27 tháng 7

Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời chưa được bao lâu, thực dân Pháp đã trở lại xâm lược nước ta. “Không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”, quân dân ta đã anh dũng chiến đấu chặn tay quân xâm lược. Trong những tháng, năm đầu của cuộc kháng chiến, nhiều đồng bào, chiến sĩ đã ngã xuống, đã đổ máu trên các chiến trường.

Khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ – ngày 19 tháng 12 năm 1946, theo lời kêu gọi cứu nước của Bác Hồ, nhân dân cả nước nhất tề đứng lên kháng chiến với tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Số người bị thương và hy sinh trong chiến đấu tăng lên, thương binh liệt sĩ trở thành vấn đề lớn.

Trước yêu cầu bức xúc đó, cùng với việc kêu gọi giúp đỡ thương binh gia đình tử sĩ, ngày 16/2/1947 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 20/SL “Quy định chế độ hưu bổng thương tật và tiền tuất tử sĩ”. Đây là văn bản pháp quy đầu tiên khẳng định vị trí quan trọng của công tác thương binh liệt sĩ đối với công cuộc kháng chiến cứu nước của dân tộc.

Để chỉ đạo công tác thương binh tử sĩ trong cả nước, ngày 26/2/1947, Phòng thương binh thuộc Chính trị Cục, quân đội quốc gia Việt Nam được thành lập. Đầu tháng 7/1947 Ban Vận động tổ chức “Ngày Thương binh toàn quốc” được thành lập.

Cùng thời gian này, tại xóm Bàn Cờ, xã Hùng Sơn, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, các đại biểu Tổng bộ Việt Minh, Trung ương Hội Phụ nữ cứu quốc, Trung ương Đoàn Thanh niên cứu quốc, Nha Thông tin tuyên truyền và một số địa phương đã dự một cuộc họp. Tại cuộc họp này, theo đề nghị của đại diện Chính trị Cục quân đội Quốc gia Việt Nam các đại biểu đã nhất trí chọn ngày 27 tháng 7 hàng năm là ngày Thương binh toàn quốc.

Chiều ngày 27/7/1947, “Ngày thương binh toàn quốc”, mở đầu bằng cuộc mít tinh lớn được tổ chức tại xã Hùng Sơn, huyện Đại Từ (Thái Nguyên). Tại cuộc mít tinh, các đại biểu đã nghe đại diện Chính trị Cục Quân đội Quốc gia Việt Nam đọc thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Ban Thường trực của Ban Tổ chức ngày thương binh toàn quốc.

Trong thư Bác viết:

“… Thương binh là những người đã hy sinh xương máu để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ đồng bào, vì lợi ích của Tổ quốc, của đồng bào mà các đồng chí đó bị ốm yếu…”.

“… Vì vậy, Tổ quốc và đồng bào phải biết ơn, phải giúp đỡ những người con anh dũng ấy…”.

Từ đó, đến ngày 27/7 hàng năm, Bác Hồ đều gửi thư thăm hỏi, động viên các thương binh, gia đình liệt sĩ và nhắc nhở mọi người phải biết ơn và hết lòng giúp đỡ thương binh, gia đình liệt sĩ.

Ngày thương binh, tử sĩ 27/7/1948, trong Lời kêu gọi, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết:

“… Thương binh và tử sĩ đã hy sinh cho Tổ quốc, đã hy sinh cho đồng bào.

Để báo đáp công ơn đó, Chính phủ phải tìm mọi cách để giúp đỡ anh em thương binh và gia đình tử sĩ.

Tôi cũng rất mong đồng bào sẵn sàng giúp đỡ họ về mặt vật chất và tinh thần…”.

Nhân dịp kỉ niệm 50 năm ngày thương binh liệt sĩ, ngày 27/7/1997, tại xóm Bàn Cờ, xã Hùng Sơn, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, nơi chứng kiến sự ra đời của ngày Thương binh toàn quốc, Bộ Lao động – Thương binh và xã hội cùng Uỷ ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên đã khánh thành khu kỉ niệm 27/7 và dựng bia kỉ niệm với nội dung được khắc trên bia:

“NƠI ĐÂY, NGÀY 27 THÁNG 7 NĂM 1947, 300 CÁN BỘ, BỘ ĐỘI VÀ ĐẠI DIỆN CÁC TẦNG LỚP NHÂN DÂN ĐỊA PHƯƠNG HỌP MẶT NGHE CÔNG BỐ BỨC THƯ CỦA BÁC HỒ, GHI NHẬN SỰ RA ĐỜI CỦA NGÀY THƯƠNG BINH LIỆT SĨ”.

Cũng nơi này, vào dịp kỉ niệm 50 năm ngày thương binh liệt sĩ (12/7/1997) đã được Nhà nước công nhận là di tích lịch sử.

Theo TẠP CHÍ DÂN TỘC

Thời khắc bi tráng của con tàu số 645

Sau lưng chúng tôi bỗng bùng lên cột lửa cùng tiếng nổ vang dội, một luồng bão kéo theo ngọn sóng cực mạnh hất chúng tôi về phía rừng đước…

Trong ngõ 301, phố Ngô Gia Tự, quận Hải An, thành phố Hải Phòng có một sĩ quan hải quân đã nghỉ hưu, tóc bạc trắng còn khỏe mạnh, minh mẫn. Ông tên là Thẩm Hồng Lăng, 68 tuổi. Giống như nhiều cựu chiến binh khác, giờ ông sống vui cùng con cháu và luôn quan tâm gần gũi các thanh, thiếu niên xung quanh. Đến Ngày Thương binh liệt sĩ (27/7) hàng năm, ông thường kể cho thế hệ trẻ nghe câu chuyện chiến đấu của đồng đội “Tàu không số”; về giờ phút hy sinh bi tráng trên biển Đông của người Chính trị viên tàu 645: Anh hùng, liệt sĩ Nguyễn Văn Hiệu.

Trong thư mục lịch sử chiến tranh cách mạng Việt Nam, “Đoàn tàu không số”, “Đường mòn Hồ Chí Minh trên biển” gắn với trang sử vô cùng anh dũng, vẻ vang của một đơn vị đặc biệt thuộc Quân chủng Hải quân thời chống Mỹ. Đó là Lữ đoàn 125 thân yêu của tôi, gồm những tàu vận tải, bên ngoài không ghi số hiệu, nhưng mỗi tàu có bí số riêng, như: 43, 56, 164, 235… Lữ đoàn ngày đó chuyên làm nhiệm vụ chở vũ khí, khí tài cho chiến trường Nam Bộ. Tàu không số được ngụy trang như tàu đánh bắt cá xa bờ của ngư dân, trang bị phương tiện hàng hải ngoài la bàn và máy đo tốc độ bằng chân vịt có thêm ống nhòm, máy vô tuyến điện sóng ngắn 108 liên hệ với trung tâm bằng tín hiệu mooc và đèn pin để bắt tín hiệu với đất liền khi tàu gần vào bến. Mỗi tàu còn được cài đặt sẵn những khối bộc phá lớn ở hầm tàu, phòng khi bị địch phát hiện không còn đường thoát, để bảo đảm bí mật tuyệt đối, lâu dài con đường vận chuyển trên biển thì cho nổ tung. Chuyến tàu không số đầu tiên của Thuyền trưởng Nguyễn Bất xuất phát đêm 30 Tết năm 1960 từ một lạch nhỏ ở miền Trung, đến vùng biển tỉnh Quảng Nam bất ngờ đụng địch, hầu hết chiến sĩ đã hy sinh. Chuyến thứ hai do Thuyền trưởng Lê Văn Một chỉ huy, xuất phát ngày 18/4/1962 tại lạch Trung Kiên, sau gần một tháng lênh đênh trên biển đã cặp bến Vàm Lũ, Cà Mau an toàn, chính thức khai thông Đường Hồ Chí Minh trên biển. Trong vòng 10 năm sau những chuyến đầu tiên ấy, có hàng trăm lượt tàu không số liên tục đi làm nhiệm vụ, vận chuyển được hàng chục nghìn tấn vũ khí, đạn dược cho chiến trường. Trong số đó cũng có một số trường hợp đụng địch, cuộc chiến đấu không cân sức diễn ra, cuối cùng người chiến sĩ tàu không số hiên ngang lựa chọn phương án “nổ tung”, không để phương tiện và hàng rơi vào tay giặc.

Con tàu không số của chúng tôi mang bí số 645, đến thời điểm đầu năm 1972 đã thực hiện được 13 chuyến vào Nam thành công. Chuyến thứ 14 chở hàng cho Quân khu 9 bị trục trặc. Hai lần nhổ neo đụng tàu địch phải quay lại. Lần thứ ba, xuất hành ngày 12/4/1972 lúc đầu trót lọt, đến vùng biển quốc tế, xuôi xuống phía biển Philippin, vòng qua Indonesia, Malaysia. Đi được 11 ngày đêm đến vịnh Thái Lan, cách đảo Phú Quốc chừng 60 hải lý, định đêm hôm đó sẽ cập bến. Buổi chiều, khi tàu đang hướng về phía đảo Phú Quốc, chúng tôi nhận được bức điện báo ngắn khẩn cấp từ Bộ Tổng tham mưu: “Bến động”…

Tôi phải kể đôi nét về những thành viên của tàu 645. Tàu có 22 cán bộ, chiến sĩ. Thuyền trưởng Lê Hà quê ở miền Nam, ra Bắc năm 1961 được cử đi học sĩ quan hải quân, năm 1963 trở lại chiến trường, làm Thuyền trưởng tàu không số. Chính trị viên, Trung úy Nguyễn Văn Hiệu, anh cả của đơn vị, lúc đó vừa tròn 40 tuổi. Anh Hiệu quê Quảng Nam, có vợ, hai con ở phường Máy Tơ, quận Hồng Bàng, Hải Phòng. Anh dáng cao to, đẹp trai, tính tình hiền lành, vui vẻ, được mọi người rất mến. Cánh thủy thủ chúng tôi thì đều tuổi mới ngoài đôi mươi, được tuyển chọn kỹ từ các đơn vị hải quân, mỗi lần ra khơi là xác định “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.

“Bến động”- mật báo về tình hình nguy cấp sắp gặp phải, cấp trên yêu cầu tàu quay mũi ngay, chạy ra vùng biển quốc tế. Lúc đó chúng tôi suy nghĩ, chỉ khoảng nửa đêm hoặc chậm lắm gần sáng là có thể vào bến, phải quay trở lại là điều không ai muốn. Chỉ huy tàu hội ý nhanh, vì sự an toàn, bí mật của bến nhận hàng mà phải nhổ neo quay ngược ra vịnh Thái Lan. Khoảng 19 giờ, đã thấy một chiến hạm địch đang đuổi theo. Chúng rọi đèn pha sáng rực, đánh tín hiệu hỏi từ đâu đến và đi đâu? Chúng tôi trả lời: “Từ Trung Quốc xuống, bị lạc”. Địch phát tín hiệu dừng tàu. Chúng tôi lập tức tăng tốc hướng ra biển Đông nhằm thoát khỏi tầm pháo của chúng. Tàu địch bám theo. Phát hiện phía ngoài khơi có thêm 3 tàu địch nữa, vậy là tàu 645 bé nhỏ đang bị kẹp giữa vòng vây. Địch phát loa gọi hàng và bắn một loạt đạn uy hiếp phía mũi tàu. Chúng tôi vẫn cố tăng tốc và trò mèo vờn chuột kéo dài đến rạng sáng ngày hôm sau. Khu vực biển chúng tôi đang bị truy đuổi gần về phía đuôi của đảo Phú Quốc được phù sa bồi đắp, lại đang lúc nước ròng có thể lội xuống được. Chi ủy cùng chỉ huy tàu hội ý chớp nhoáng, ra quyết định khắc nghiệt nhất: nổ tàu! Tất cả nhảy xuống biển, chỉ để một người ở lại điểm hỏa khối thuốc nổ và thoát ra sau. Người nhận trách nhiệm sau cùng đó không ai khác, là người anh cả của tàu chúng tôi. Trong giây phút định mệnh ấy, tôi chợt thấy trên gương mặt vuông vức của Chính trị viên Nguyễn Văn Hiệu toát ra vẻ bình tĩnh lạ thường. Anh bắt tay từng người với ánh mắt trìu mến thay cho lời từ biệt. Tàu chúng tôi lập tức nổ loạt súng liên thanh vào chiếc tàu chiến gần nhất. Một quả đạn pháo lớn của địch nã thẳng vào phía buồng lái làm 6 thủy thủ hy sinh tại chỗ và tàu mất lái. Chính trị viên Nguyễn Văn Hiệu yêu cầu Thuyền trưởng Lê Hà và số anh em còn lại nhảy xuống biển. Anh phát tín hiệu để kìm chân địch và tranh thủ hủy hết tài liệu. Con tàu mất lái chạy vòng tròn. Mười sáu người chúng tôi nhảy xuống nước, cố thoát ra xa khu vực tàu 645 đang mắc kẹt giữa vòng vây, nhưng mấy anh em bị thương không thể dìu đi nhanh hơn được. Bỗng nghe tiếng Chính trị viên trên tàu hét to: “Khẩn trương lên! Hãy báo cáo với đoàn là tôi đã hoàn thành nhiệm vụ!”. Chúng tôi hiểu, Chính trị viên đã cố ý dừng thêm ít phút thời điểm điểm hỏa, bởi nếu nổ ngay sẽ nguy hiểm đến tính mạng anh em đang bơi chưa xa tàu được là bao. Rồi giây phút bi tráng cũng phải đến. Sau lưng chúng tôi bỗng bùng lên cột lửa cùng tiếng nổ vang dội, một luồng bão kéo theo ngọn sóng cực mạnh hất chúng tôi về phía rừng đước. Sau thời điểm tàu 645 nổ tung và chìm không lâu, tất cả chúng tôi đều bị địch bắt, đưa về giam giữ, tra khảo tại trại tù binh Phú Quốc. Hiệp định Paris về Việt Nam ký cuối năm 1972, đến tháng 3/1973 chúng tôi được trao trả tù binh.

Sau ngày nước nhà thống nhất, Thuyền trưởng Lê Hà trở về quê hương ở thị trấn Phước Hải, huyện Đất Đỏ (Bà Rịa – Vũng Tàu), các anh em khác cũng đều về quê, tôi thì ở Hải Phòng, cách nhà người anh cả của đơn vị không xa. Năm 1976, Nhà nước đã truy tặng liệt sĩ Nguyễn Văn Hiệu danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang. Hàng năm, đến ngày 24/4, ngày tàu 645 chìm, cũng là ngày giỗ của anh, chúng tôi đều tụ tập đến nhà anh ở phường Máy Tơ để thắp nén nhang tưởng nhớ. Trong tâm khảm chúng tôi còn in rõ nét khoảnh khắc bi tráng ngày ấy trên biển Đông, lúc anh cố đợi chúng tôi ra xa vùng nguy hiểm và lúc anh điểm hỏa cùng con tàu hòa vào lòng biển khơi.

37 năm sau ngày Chính trị viên Nguyễn Văn Hiệu hy sinh, một điều kỳ diệu khác đã xảy ra. Được sự giúp đỡ tận tình của chỉ huy Quân chủng Hải quân, của chính quyền, nhân dân địa phương, của Viện Khoa học hình sự – Bộ Công an, ngày 29/4/2009 nhân dân Hải Phòng đã trang trọng rước hài cốt của ông từ bãi cát phía chóp đuôi đảo Phú Quốc về an táng tại Nghĩa trang liệt sĩ thành phố.

NHÀ VĂN PHẠM QUANG ĐẨU (SỨC KHỎE & ĐỜI SỐNG)

Suy nghĩ ngày 27 tháng 7: Không ai bị lãng quên

Không người lính nào muốn chết, nhưng người lính nào cũng hiểu và cảm thấy sâu sắc ý nghĩa tối thượng của hai chữ “hy sinh”. Và họ đã chấp nhận.

Cuộc kháng chiến chống Pháp dừng lại sau chiến dịch Điện Biên Phủ cách đây 59 năm. Cuộc chiến tranh với Mỹ đã chính thức dừng ở cột mốc 30/4/1975, cách đây 38 năm. Gần nhất, hai cuộc chiến tranh ở biên giới Tây Nam và biên giới phía bắc, độ lùi thời gian cũng đã vào khoảng 30 năm có lẻ.

Và những liệt sĩ của chúng ta hy sinh ở hai cuộc chiến ấy, nhiều người cũng đã “tuổi chết dần hơn tuổi sống”. Bởi lúc hy sinh, họ chỉ ở độ tuổi hai mươi.

Khi các đoàn viên và thanh niên của thế hệ trẻ hôm nay thắp lên những ngọn nến tri ân liệt sĩ, các em có thể nghĩ: những người nằm dưới mộ kia đúng bằng tuổi các em hôm nay, và những liệt sĩ ấy đã có “tuổi chết” nhiều hơn hẳn tuổi các em bây giờ đang sống. Nghĩ như thế để có thể vừa kết nối tình cảm, ước mơ, rung động giữa những người có “tuổi sống” bằng nhau nhưng nay đã thuộc về hai thế giới khác nhau, vừa bày tỏ niềm kính trọng và tiếc thương những liệt sĩ đã từng sống, ước mơ, hy vọng… như chúng ta đang sống hôm nay, nhưng rồi với họ, tất cả đã phải dừng lại. Và họ chỉ còn được đếm hằng năm bằng “tuổi chết” – họ đã hy sinh bao nhiêu năm rồi?

Không người lính nào muốn chết, nhưng người lính nào cũng hiểu và cảm thấy sâu sắc ý nghĩa tối thượng của hai chữ “hy sinh”. Và họ đã chấp nhận “Nếu ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ quốc”. Tôi đã từng được sống, được chia sẻ với những người lính đang độ tuổi mười tám đôi mươi. Họ hồn nhiên và trong sáng. Nhưng họ đã sớm có ý thức. Nhiều người trong số họ, khi hy sinh, vẫn tuyệt đối trong sáng và hồn nhiên. Nhưng họ đã hy sinh với tinh thần trách nhiệm cao và nặng hơn độ tuổi của họ. Các bạn thanh niên hôm nay có thể nhìn sâu hơn vào cách sống “trong sáng, hồn nhiên, và không chỉ như thế” của các liệt sĩ chúng ta. Đó cũng là cách để xác định và khẳng định thái độ sống cho mình ở một đất nước mà những nguy cơ luôn rình rập, mà sự hy sinh chưa bao giờ thôi ám ảnh những công dân yêu nước thuộc nhiều thế hệ.

Năm ngoái, tôi đã đi viếng nhiều nghĩa trang liệt sĩ ở các tỉnh biên giới phía bắc vào dịp trước ngày 27.7. Tại nhiều nghĩa trang, tôi đã ghi lại độ tuổi của các liệt sĩ (có tên) đang nằm ở đó. Những liệt sĩ ở độ tuổi hai mươi (thậm chí chỉ 18 tuổi) vẫn chiếm nhiều nhất. Với mười nghìn liệt sĩ nằm ở nghĩa trang liệt sĩ quốc gia Trường Sơn, những người lính trẻ vẫn chiếm đa số.

Tại nghĩa trang liệt sĩ quốc gia Vị Xuyên (Hà Giang) – nơi các liệt sĩ của chúng ta hy sinh từ năm 1984 tới 1987, những liệt sĩ có “tuổi sống” 18, 19 là rất đông. Những người lính từ 30 tỉnh thành trong cả nước đã góp máu xương mình giữ từng mỏm núi, từng tấc đá ở chiến trường Thanh Thủy -Vị Xuyên – Hà Giang.

Noi gương các anh hùng, liệt sĩ, những người trẻ Việt Nam yêu nước nên sống có ý thức và tinh thần cảnh giác cao. Và cũng để sẻ chia, yêu thương, kính trọng nhiều hơn những liệt sĩ của chúng ta trên các mặt trận. “Không một ai bị lãng quên, không một cái gì bị quên lãng”, kể cả “tuổi sống” và “tuổi chết” của các liệt sĩ, kể cả các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, dù ở đất liền, ở biên giới hay trên các vùng biển đảo Việt Nam.

THANH THẢO (THANH NIÊN ONLINE)

Ngày ấy, 98 thanh niên đã bị vùi lấp như thế…

(Dân trí) – Ngày 3/1/1978, trên công trường cải tạo cống Hiệp Hòa (Hòa Sơn, Đô Lương, Nghệ An), một vụ tai nạn kinh hoàng đã xảy ra vùi lấp 98 thanh niên…

Mái kênh, nơi xẩy ra vụ lở đất khiến 98 thanh niên thiệt mạng.

Mái kênh, nơi xẩy ra vụ lở đất khiến 98 thanh niên thiệt mạng.

35 năm sau, câu chuyện tri ân những lớp thanh niên đã ngã xuống trên công trình Hiệp Hòa lại được nhắc ghi. Không phải khơi lại ký ức đau thương, mà để thấy rằng vẫn còn nhiều điều phải nghĩ suy.

Đại tang nơi công trường thủy lợi

Cho đến bây giờ, ông Phan Văn Hợi – nguyên Phó Bí thư huyện đoàn, Tổng đội trưởng Tổng đội thanh niên tình nguyện xây dựng quê hương huyện Thanh Chương (gọi tắt là Tổng đội Thanh Chương), vẫn còn nhớ như in thời khắc đau thương đó. Ông kể: “Ngày đó, đất nước vừa thống nhất, phong trào 3 sẵn sàng ở thời chiến chuyển sang phong trào xây dựng quê hương đất nước. Tỉnh có chủ trương huy động lực lượng thanh niên tình nguyện tham gia đào đắp kênh mương, hoàn chỉnh hệ thống thủy nông.

Ngày 26/3/1976, Tổng đội Thanh Chương ra đời với khoảng 2.200 đoàn viên thanh niên (còn gọi là lực lượng 202). Sau khi hoàn thành một số công trình, Tổng đội Thanh Chương được điều lên Đô Lương tham gia vào việc cải tạo lại cống Hiệp Hòa. Cống Hiệp Hòa nằm trên hệ thống nông giang dẫn nước từ Bara Đô Lương tưới tiêu cho cánh đồng các huyện Đô Lương – Diễn Châu – Yên Thành – Quỳnh Lưu. Lúc bấy giờ cống này có 3 ống dài khoảng 50m, được san phẳng có đường phía trên để qua lại.

Mái kênh, nơi xẩy ra vụ lở đất khiến 98 thanh niên thiệt mạng.
Ông Nguyễn Hữu Miệu: Chúng tôi đã từng kiến nghị phải xây dựng những công trình tưởng niệm, ghi danh nhưng vẫn không có hồi âm.

Vì xây dựng từ thời Pháp thuộc nên đường dẫn nước của nó đã bị hạn chế, buộc phải mở rộng nhằm tăng lưu lượng nước chảy. Đúng 11 giờ 55 phút ngày 3/1/1978 (tức ngày 24/11 Đinh Tỵ), khi toàn bộ công trường đang chuẩn bị đến giờ nghỉ ca, thì hàng ngàn mét khối đất đá được đổ tạm trên mái núi đã đổ ập xuống, 98 thanh niên đã bị vùi lấp hoàn toàn, 132 người khác bị thương”.

Đây có lẽ là nỗi đau lớn nhất trong lịch sử đưa nước về xuôi ở xứ Nghệ. Hàng ngàn thanh niên đã hồ hởi lên đường, với suy nghĩ phải đem bằng được nước về giúp cây lúa tốt tươi. “Chúng tôi làm việc bằng tất cả niềm hăng say, công trường lúc nào cũng rộn tiếng ca, tiếng hò khoan xốc dậy tinh thần. 80% công việc đã được hoàn thành, những hàng dài thanh niên đang chuyền những khối đất đá cuối cùng từ dưới lòng kênh lên phía trên. Có những tổ đã xong việc còn nán lại chờ tổ bạn. Bữa trưa bằng miếng bánh mì vắt được đưa đến chân công trường chỉ vừa kịp cắn dở. Thế mà…” – ông Hợi nghẹn ngào.

Ông Nguyễn Cảnh Mai – nguyên xã đội trưởng xã Hòa Sơn, nhớ lại: “Sau khi tai nạn xảy ra, cả công trường nhuốm một màu tang thương. Tiếng bạn khóc bạn, cha mẹ khóc tìm con như lạc đi. Tất cả các lực lượng được huy động đào bới, sau 3 ngày mới tìm được thi thể cuối cùng, khiến tất cả đều không thể cầm lòng”.

Trong số 98 chàng trai, cô gái tử nạn ngày đó, có đến 94 người thuộc Tổng đội Thanh Chương, nhiều nhất là người của xã Cát Văn có 37 người chết; Phong Thịnh 18 người; Thanh Liên 11 người…, tất cả đều còn rất trẻ, có người vừa nhận giấy báo trúng tuyển đại học, có người vừa mới ăn hỏi, chuẩn bị đi lấy chồng nên ra công trường chia vui, tạm biệt anh em, bạn bè lần cuối, thì gặp nạn.

Cần lắm một tượng đài

Cho đến bây giờ khi về Cát Văn, Phong Thịnh, Thanh Liên… ngày 24/11 âm lịch hàng năm vẫn được coi như một ngày giỗ chung của nhiều gia đình. Ở Cát Văn, hình ảnh những đoàn người đưa tiễn cứ nối nhau đi lặng lẽ giữa cái rét cắt da chiều cuối năm Đinh Tỵ (1977) vẫn không phai mờ trong ký ức của biết bao người.

“Trước nỗi đau thương quá lớn, ngay tết năm đó, cả làng không ai đốt pháo. Chính quyền địa phương lúc đó cũng đã chôn cất những người tử nạn vào một khuôn viên. Sau này có ý định đưa vào nghĩa trang liệt sĩ của xã, nhưng có nhiều ý kiến khác nhau nên đành thôi. Bây giờ thì các gia đình đã chuyển về nghĩa trang riêng cả” – ông Giản Tư Ngộ – Chủ tịch UBND xã Cát Văn chia sẻ.

Ông Nguyễn Cảnh Mai, nguyên xã đội trưởng xã Hòa Sơn, Đô Lương.
Ông Nguyễn Cảnh Mai, nguyên xã đội trưởng xã Hòa Sơn, Đô Lương.

Ngày đó, Cát Văn là xã bị thiệt hại nặng nề nhất đã được tỉnh đầu tư cho một trạm bơm, coi như là “công trình đáp nghĩa”. Tại các địa phương có người chết, chính quyền đã tính đến việc chôn cất những người tử nạn về một nghĩa trang, để sau này quy tập vào nghĩa trang liệt sĩ chung, nhưng về sau không thực hiện được.

Trong hành trình tìm lại những ký ức về sự kiện Hiệp Hòa, tôi có mặt tại xã Thanh Liên, tại đây hài cốt của những người tử nạn tại cống Hiệp Hòa đã được quy tập về một nghĩa trang riêng nằm bên cạnh đập Cao Điền và hằng ngày vẫn được các em học sinh Trường Tiểu học Thanh Liên chăm sóc. Chỉ vẻn vẹn hai chữ “Ghi công” thôi, nhưng dù sao đó cũng là một sự an ủi đối với vong linh của những người đã khuất.

Tôi tự vấn, thế hệ trẻ bây giờ liệu mấy ai được biết và đã biết về sự kiện cống Hiệp Hòa. Sự tri ân đối với những người đã tử nạn dừng lại ở việc trợ cấp 360.000đ/tháng cho thân sinh của họ, và thăm hỏi vào ngày lễ, tết liệu đã xứng đáng?.

Cô Đặng Thị Thanh Xuân (xóm 1, xã Cát Văn, công tác tại Trường Tiểu học Phong Thịnh) – người đã may mắn sống sót một cách kỳ diệu dù bị vùi lấp trong đống đổ nát, vào ngày 24/11 âm lịch hàng năm vẫn cùng gia đình làm “giỗ sống” cho mình. Nhưng điều khiến cô xót xa nhất vẫn là việc mình chưa thể làm gì nhiều hơn để tri ân đối với bạn bè, các anh chị em – những người đã nằm xuống.

Tại khu vực cống Hiệp Hòa, những dấu tích về vụ tai nạn vẫn còn đó, 3 ống cống dài đã bị sập một nửa vẫn hàng ngày chuyển nước về xuôi tưới tốt cho hàng ngàn hécta lúa ở các huyện Diễn – Yên – Quỳnh. 98 con người đánh đổi cho một khúc kênh được khơi dòng thực sự là một cái giá quá đắt. Thế nhưng bên công trình lịch sử này, một tấm bia ghi công, ghi danh những người đã ngã xuống vẫn chưa có. Cách đây mấy năm, một cái am nhỏ đã được các cán bộ thủy lợi dựng lên ngay mép núi, nơi xẩy ra vụ tai nạn, chừng đó thôi liệu đã đủ cho một sự tri ân?

Ông Nguyễn Hữu Miệu, nguyên Trưởng CA huyện, Thường vụ huyện ủy huyện Thanh Chương thời kỳ đó, cho rằng: “Các cháu mất đi là một thiệt thòi lớn cho gia đình, về mặt tinh thần phải coi các cháu là lực lượng TNXP và phải được hưởng các chế độ như TNXP. Ngày trước và cả sau này nữa, nhiều cán bộ lão thành cũng đã từng kiến nghị phải xây dựng những công trình tưởng niệm, ghi danh những người đã ngã xuống, thế nhưng không hiểu sao vẫn không có hồi âm”. Nói đoạn, ông nhìn về phía xa xăm, tôi chợt thấy hai mắt ông ngấn nước.

Một am nhỏ được dựng lên đối diện với vị trí xẩy ra tai nạn ngày trước.
Một am nhỏ được dựng lên đối diện với vị trí xẩy ra tai nạn ngày trước.

Cuối cùng xin dẫn lời ông Nguyễn Hoàng Thông (xóm 7, Cát Văn) có con gái là Nguyễn Thị Kim Thanh và thầy giáo Trần Văn Đồng, công tác tại trường THCS Cát Văn, có chị gái là Trần Thị Ngọc Kim, cả hai người đều đã nhận được giấy báo trúng tuyển Đại học, khi ra công trường chia vui với bạn bè lần cuối thì gặp nạn tại đây: “Chúng tôi cũng không mong muốn gì về chế độ, thế nhưng những hi sinh cống hiến của người thân chưa được ghi nhận, hàng năm đến ngày lễ tết lên Hiệp Hòa, muốn thắp một nén hương cũng không biết cắm vào đâu, tủi thân lắm chú ạ”.

“Sự tri ân đối với các bậc tiền bối đã ngã xuống trên công trình xây dựng cống Hiệp Hòa là điều cần thiết, một cách để giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ. Tỉnh đoàn cũng đã nhận được một số kiến nghị, hiện nay đang giao cho huyện đoàn Thanh Chương hoàn thiện các hồ sơ thủ tục để trình các cấp xem xét xây dựng một số công trình tưởng niệm” – anh Nguyễn Đình Hùng, Bí thư Tỉnh đoàn Nghệ An.

Một am nhỏ được dựng lên đối diện với vị trí xẩy ra tai nạn ngày trước.
Tại Thanh Liên, mộ của những người tử nạn đã được quy tập về một nghĩa trang riêng, dù vẻn vẹn hai chữ ghi công nhưng dù sao đó cũng là một niềm an ủi.

Đông Nguyễn – Lany Nguyễn

Niềm khắc khoải Vị Xuyên

Tháng 7-1984, chỉ trong một ngày, hơn 600 cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn 356 đã anh dũng hy sinh trong cuộc chiến đấu ác liệt bảo vệ biên cương phía Bắc Tổ quốc. 29 năm đã trôi qua song hài cốt hàng trăm liệt sĩ vẫn chưa được tìm thấy, để lại nỗi day dứt khôn nguôi cho đồng đội và thân nhân

Những chiến sĩ con dân đất Việt/ Tuổi xuân đâu tiếc/ Lưng trần, cắp súng xung phong/ Đạn xé toác vai, đạn cày rách mặt/ Súng cầm tay rực lửa/ Xông pha giữ đất biên thùy… Cựu binh Đặng Việt Châu – nguyên chính trị viên Tiểu đoàn 3, Trung đoàn 876, Sư đoàn 356 – bùi ngùi đọc lại những vần thơ ông viết ngày 2-9-1984, khi đơn vị làm giỗ 50 ngày cho các đồng đội đã hy sinh tại mặt trận Vị Xuyên, Hà Giang.Khúc bi tráng trên cao điểm 772

Theo tư liệu của Sư đoàn 356, trong trận đánh lịch sử chống quân Trung Quốc ngày 12-7-1984, hơn 600 cán bộ, chiến sĩ đã anh dũng hy sinh tại mặt trận Vị Xuyên để bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc. Tiểu đoàn 3 khi ấy do đại úy Nguyễn Hữu Thanh làm tiểu đoàn trưởng, ông Châu là chính trị viên, có nhiệm vụ phối hợp tấn công và chiếm lại tuyến phòng ngự Đ3 ở cao điểm 772 từ quân Trung Quốc.

“0 giờ ngày 12, đại úy Thanh cùng mũi xung kích tiến lên phía trước theo bộ phận đặc công. Bốn giờ, súng bắt đầu nổ, mặt đất ầm vang. Đến 6 giờ 5 phút, ở khu đồi Đ3, tiếng hô xung phong vang động át cả tiếng đạn bom… Đến tận giờ, nhớ lại giây phút đó, tôi vẫn thấy nôn nao” – ông Châu xúc động.

Tuy nhiên, tình hình diễn biến không thuận lợi. Quân Trung Quốc co cụm chống đỡ chờ tiếp viện. Sau đó, hỏa lực Trung Quốc bắn vào trận địa ta mỗi lúc càng ác liệt hơn. Lực lượng bộ binh ém sẵn của Trung Quốc tràn lên tấn công giành giật các vị trí với ta. Thương vong bắt đầu xảy ra với Tiểu đoàn 3…

“Đại úy Thanh dẫn đầu một mũi quân đánh thọc lên khu vực sở chỉ huy của Trung Quốc ở cao điểm 772. Quân Trung Quốc chống trả dữ dội. Anh Thanh bị trúng đạn rất nặng nhưng vẫn bình tĩnh tiếp tục chỉ huy tiểu đoàn, sau đó đã anh dũng hy sinh. Nơi anh nằm xuống chỉ cách hầm chỉ huy của phía Trung Quốc khoảng hơn 10 m” – ông Châu ngậm ngùi.

Từ sáng đến trưa 12-7-1984, lực lượng ta đã tổ chức hàng chục đợt tấn công nhưng đều bất thành. Hỏa lực của phía Trung Quốc từ trên cao dội xuống hầu như không lúc nào ngừng. Trong tình thế khó khăn, bộ đội ta vẫn quyết tâm tấn công đánh chiếm lại mục tiêu…

Nhắc lại trận đánh năm xưa cùng những đồng đội của mình, ông Châu không giấu được niềm tự hào và xúc động. “Đại đội trưởng Nguyễn Văn Minh bị thương nặng vẫn giữ vững vị trí. Khi bị thương lần 2 nặng hơn, Minh được anh em đưa khỏi cao điểm 772 rồi bị lạc trong rừng. Mãi đến sáng 18, sau nhiều ngày tìm kiếm, đơn vị mới thấy anh. Khi đó, Minh đã rất yếu vì mất nhiều máu, vết thương nhiễm trùng. Nhận ra tôi, Minh chỉ nói được tiếng “anh” rồi ngất lịm” – ông Châu bồi hồi.

Còn nhiều, rất nhiều cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn 356 đã bất chấp tính mạng để giành lại từng tấc đất biên cương của Tổ quốc. Trung đội phó Nguyễn Văn Hà bị đạn pháo tiện đứt một cánh tay nhưng vẫn dùng tay còn lại ném lựu đạn về phía quân Trung Quốc. Xạ thủ B40 Nguyễn Văn Gấm mặc cho mảnh pháo và đất đá bay như mưa rào vẫn rướn người bắn liên tiếp 2 quả khiến hỏa lực bên kia câm bặt. Trung đội trưởng Trần Văn Tuyến bị trúng đạn và hy sinh trong tư thế nhào lên tiến công…

Tuổi xanh gửi lại chốn này

Cựu binh Tiểu đoàn 3 Nguyễn Văn Kim cho biết chỉ riêng đơn vị của ông đã có trên 180 người ngã xuống trong trận đánh ngày 12-7-1984. “Đến nay, hàng trăm hài cốt liệt sĩ thuộc Sư đoàn 356 vẫn còn nằm rải rác ở các vị trí chiến đấu năm nào. Dù đã rất cố gắng nhưng đồng đội vẫn không thể nào tìm và mang về hết thi hài của anh em” – ông nghẹn ngào.

Gần 30 năm đã trôi qua nhưng những cựu binh tham gia trận đánh ngày nào vẫn không thể nào quên các địa danh ác liệt ở mặt trận Vị Xuyên: “Ngã ba cửa tử”, “thung lũng gọi hồn”, “cối xay thịt”… “Nhiều người lính còn rất trẻ. Họ đã ngã xuống, tuổi xanh gửi lại Vị Xuyên đến tận giờ. Sau này, các đơn vị thường xuyên cử người trở lại tìm kiếm đồng đội nhưng không được bao nhiêu hài cốt” – ông Kim day dứt.

Những ngày ngay sau trận đánh, những chuyến đi tìm đồng đội đã để lại những ký ức khó phai. Ông Kim cho biết suốt một tuần liền, khi đêm xuống, những người lính Sư đoàn 356 đã lặng lẽ tìm thi thể đồng đội. “Nước mưa và nước mắt của người lính đã hòa trộn trong những ngày tháng 7 dầm dề bên thung lũng Nậm Ngặt. Mỗi tấc đất, ngọn cỏ vùng Thanh Thủy – Vị Xuyên đều thấm đẫm máu xương của bao cán bộ, chiến sĩ” – ông Kim bồi hồi.

Ông Nguyễn Đình Thắng – cựu binh Trung đoàn 153, Sư đoàn 356 – cho biết khi ấy, đưa được một thương binh hoặc tử sĩ từ trận địa ra là vô cùng gian khổ. “Mỗi cáng thương phải ít nhất 4 người khiêng. Dốc cao, đường trơn, vừa đẩy vừa kéo từ dưới thung lũng Khe Cụt ngược lên đến sở chỉ huy rồi trở ra bản Nậm Ngặt… Vừa đi vừa canh chừng đạn pháo, các ổ phục kích của quân Trung Quốc” – ông Thắng nhớ lại.

Theo ông Đặng Việt Châu, tìm kiếm thi thể đồng đội trong lúc đạn bom còn khốc liệt là việc không hề dễ dàng. “Trước hết, mình phải sống thì mới có thể mang được đồng đội trở về. Vì thế, việc tìm kiếm đồng đội được tính toán hết sức thận trọng, chỉ những người trực tiếp chiến đấu, thông thuộc địa hình, địch tình mới được cử đi. Do mưa nhiều nên thi thể nhiều anh em đã nhanh chóng bị phân hủy. Tìm thấy đã khó, đưa được thi thể anh em trở về còn gian nan bội phần” – ông Châu cho biết.

Giành lại những điểm cao

Trong tháng 4 và tháng 5-1984, quân Trung Quốc đã mở nhiều chiến dịch, đợt pháo kích lớn, bắn hàng chục ngàn quả đạn pháo, đạn cối vào 6 tỉnh biên giới phía Bắc nước ta, gồm: Hà Tuyên (nay là Hà Giang, Tuyên Quang), Lạng Sơn, Quảng Ninh, Cao Bằng, Hoàng Liên Sơn (nay là Lào Cai, Yên Bái) và Lai Châu. Sau đó, Trung Quốc tiếp tục đánh chiếm hàng chục điểm cao thuộc chủ quyền của Việt Nam.

Trước tình hình này, cuối tháng 6-1984, ta quyết định tổ chức tiến công để giành lại những điểm cao bị Trung Quốc chiếm đóng. Ngày 12-7-1984, cùng với các sư đoàn 312, 316, 313, Sư đoàn 356 thực hiện chiến dịch MB84 tại Vị Xuyên. Trung đoàn 876, Sư đoàn 356 đánh cao điểm 772; Trung đoàn 174, Sư đoàn 316 đánh cao điểm 233; Trung đoàn 141, Sư đoàn 312 đánh cao điểm 1030…

VĂN DUẨN (NGƯỜI LAO ĐỘNG)

Việt Nam anh hùng

Có nơi nào như Đất nước chúng ta
Viết bằng máu cả ngàn chương sử đỏ
Khi giặc đến vạn người con quyết tử
Cho một lần Tổ quốc được sinh ra

Đó là 66 Liệt Sỹ thuộc sư đoàn 320 (Đồng Bằng) hi sinh vào khoảng năm 1952, được an táng tại nghĩa trang xã Thái Dương , huyện Thái Thụy (Thái Bình)…Tuy mỗi người một mộ , nhưng tất cả 66 bia mộ đều một dòng “tên” giống nhau: Chiến sỹ f320 !

Theo CCB Trần Văn Soái, nguyên là du kích, từng chứng kiến những trận chiến đấu quyết liệt của các đơn vị “đại đoàn” Đồng Bằng những năm 51 – 54, thì đây mới chỉ là một phần các Liệt Sỹ thuộc trung đoàn 48, 64, 52 hi sinh trên vùng đất huyện Thái Ninh, và Thụy Anh (nay gộp lại thành Thái Thụy) … Vẫn còn nhiều Liệt sỹ khác đã bị tan hòa trong đất , trong nước quê hương… không biết các gia đình các Liệt Sỹ có biết để tìm đến khói hương ?

Và rồi, câu hỏi của CCB lão thành Trần Văn Soái, cũng cùng nỗi băn khoăn của những CCB trong Ban liệt lạc sư đoàn Đồng Bằng tại Nam Trung Bộ và Tây Nguyên. Sực nghĩ đến ngôi đền thờ trong khuôn viên sư đoàn đã khắc tên, lưu danh hơn chục nghìn Liệt Sỹ các thế hệ đơn vị , các thành viên thường trực ban liên lạc đơn vị tại Nam Trung Bộ và Tây Nguyên đã tổ chức một nhóm công tác, lên tận sư đoàn taị Tây Nguyên để sưu tìm danh tính các Liệt sỹ kể trên. Chuyến đi vượt yêu cầu, khi tấm lòng cảu các cán bộ đương nhiệm ở sư đoàn , hòa nhịp với tấm lòng của các CCB. Chỉ trong 3 ngày mày mò, gạn tìm từng trang hồ sơ, đối chiếu, phân tích từng tình huống hi sinh của các Liệt Sỹ, nhóm các CCB đã phối hợp với anh em cán bộ cơ quan sư đoàn xác định được 136 Liệt Sỹ hi sinh tại Thụy Anh và Thái Ninh trong khoảng thời gian từ 1951 đến 1954.
Với trách nhiệm và hơn hết là tấm lòng trân quý sự hi sinh của các đồng đội thế hệ cha anh…Chỉ huy sư đoàn Đồng Bằng (Quân Đoàn 3) đã phối hợp với Ban liên lạc truyền thống sư đoàn tại Nam trung bộ và Tây nguyên liên hệ với địa phương tổ chức đầu tư xây dựng bia ghi danh tại chính nghĩa trang Thái Dương. Tiếp đến, qua các BLL đồng đội sư đoàn tại các tỉnh thành, những thông tin về các Liệt Sỹ hi sinh trên đát Thái Thụy sẽ được chuyển đến các gia đình thân nhân những Liệt Sỹ để mồng một, ngày rằm hay lễ tết, các thân nhân Liệt sỹ sẽ tìm về hương khói, giữ giỗ cho các Liệt sỹ . Được biết, sau một thời gian đầu tư , tôn tạo và nâng câp, nghĩa trang Liệt Sỹ xã Thái Dương sẽ được khánh thành vào đúng ngày 27/7/2013- ngày thương binh Liệt Sỹ . Và trong hương khói ngày tri ân tháng bảy, những ngôi mộ đồng đội tuy không thể được thay bằng những tên riêng … nhưng sẽ ấm vong linh những người lính một thời kề vai sát cánh bên nhau trong cuộc chiến đấu dành độc lập tự do cho tổ quốc, những người lính lại đứng bên nhau trong một tấm bia ghi danh tính, quê quán từng người.

Ngày 27/7, đại diện BLL đồng đội trung đoàn 27 Triệu Hải, sư đoàn Đồng Bằng tại Nam Trung Bộ và Tây Nguyên sẽ có mặt tham gia lẽ khánh thành công trình tôn tạo, nâng cấp Nghĩa trang xã Thái Dương và tham gia cùng BLL đồng đội trung đoàn 27 sư đoàn Đồng Bằng tại Thái Bình tổ chức lễ thiết linh, đặt đất và nước từ chiến trường xưa về thờ vọng tại Nghĩa trang thành phố Thái Bình . Nhân dịp này, BLL đồng đội trung đoàn 27 Triệu Hải – Sư đoàn Đồng Bằng tại Nam Trung bộ và Tây Nguyên sẽ trao cho xã Thái Dương và Ban liên lạc truyền thống Trung đoàn 27 Triệu Hải tại Thái Bình mỗi đơn vị mỗi quỹ “hương hỏa” 10 triệu đồng.

Thông tin từ fb Lê Bá Dương Cựu chiến binh .

Anh hùng Phạm Tuân kể chuyện lên vũ trụ

Kể về bài tập ly tâm nghẹt thở, bài quay tiền đình đinh óc, anh hùng Phạm Tuân hồi tưởng quãng thời gian khổ luyện trước khi ngồi lên tàu vũ trụ…

Ngày 23/7/1980, anh hùng Phạm Tuân trở thành người đầu tiên của Việt Nam và châu Á bay vào vũ trụ. Cơ may này đến với ông khi năm 1977 Phạm Tuân được cử sang Liên Xô học tại Học viện Không quân Gagarin. Năm 1979, khi chọn phi công vũ trụ, phía Liên Xô kiểm tra tất cả phi công và kỹ sư Việt Nam nhưng chỉ chọn được 3 vì nhiều người không vượt qua được các bài kiểm tra thể lực.

Anh hùng Phạm Tuân cho biết, tàu vũ trụ bay quanh trái đất trong điều kiện không có khí quyển, không trọng lượng. Để đảm bảo chuyến bay trong vũ trụ, phi công phải chịu đựng được sự tăng trọng lực khi con tàu được phóng lên, chịu được không trọng lượng khi tàu bay quanh vũ trụ; thích nghi với tốc độ và độ quay của con tàu. Tức là hệ thống tiền đình của phi công phải thích nghi được với điều kiện đặc biệt mà dưới đất không có.

“Ôtô tốc độ thường là 120 – 150 km một giờ, máy bay là 900 km một giờ nhưng tàu vũ trụ có vận tốc 7,92 km một giây. Với tốc độ đó, hệ thống tiền đình của chúng ta chưa bao giờ thu nhận khi ở mặt đất. Ngoài ra, con người ở vị trí cân bằng về lực nên mất sức hút của trái đất, máu không lưu thông bình thường mà đưa lên đầu nhiều hơn xuống chân”, ông phân tích.

Để đảm bảo được những yếu tố sức khỏe, chàng thanh niên Phạm Tuân khi đó đã miệt mài luyện tập sức khỏe trong một năm rưỡi trước khi ngồi lên con tàu vũ trụ. Ông nhớ bài tập đầu tiên là ly tâm. Phi công ngồi trên một cái ghế được đặt với một cánh tay đòn dài khoảng 5 – 7m và quay tròn. Việc này sẽ tạo ra quá tải, lực đè lên người phi công khoảng 5 – 10 – 12 lần trọng lượng cơ thể. Mục đích của bài tập là để kéo máu trong cơ thể dồn xuống dưới, để xem khi não thiếu máu thì sức chịu đựng của người đó ra sao.

“Quay đến 10 vòng còn thở được chứ 12 lần thì hầu như không thở được vì có lực nặng hàng tấn đè lên người”, ông cười.

Bài tập thứ 2 là quay tiền đình. Phi công ngồi trên ghế được quay tròn, cứ 3 giây lại cúi đầu xuống tạo cánh tay đòn đưa máu lên não, 3 giây lại ngẩng đầu lên để máu tụt xuống. Nếu bình thường đi lại thì đầu quay khoảng 15-20 độ mỗi giây, nhưng trong trường hợp này thì quay liên tục để tiền đình nhận tín hiệu khác, đầu óc rối loạn cộng với lượng máu thay đổi tạo rối loạn mạnh hơn. Trung tướng Phạm Tuân nhớ, khi tuyển phi công vũ trụ, yêu cầu mỗi người phải ngồi 10 phút trên ghế đó, nhiều người chỉ 5-7 phút thì nôn hết.

Đúng 1h33′ ngày 23/7/1980 (giờ Hà Nội), Phạm Tuân cùng với nhà du hành vũ trụ Xô viết Viktor Vassilyevich Gorbatko được phóng vào không gian từ sân bay vũ trụ Baikonur trên tàu Soyuz 37. Vận tốc phóng nhích dần từ 0 đến 7,92km/s, lên đến độ cao 300km thì tàu bay song song với trái đất và đạt được vận tốc cao nhất.

Hành trang mà ông mang theo là ảnh gia đình, vợ con, phong thư, ảnh Bác Hồ, Tổng bí thư Lê Duẩn, một nắm đất Ba Đình, bản Tuyên ngôn độc lập và di chúc của chủ tịch Hồ Chí Minh, cờ Việt Nam và cờ Nga, huy hiệu của Bác Hồ bằng vàng. Tất cả sẽ được đóng dấu trạm vũ trụ và mang trở về mặt đất.

“Phút được phóng đi tôi rất hồi hộp bởi ngồi trên quả tên lửa cao khoảng 40m, xung quanh động cơ làm việc ù ù. Nhưng sau đó tập trung làm việc nên quen dần, chỉ thấy bị lực đè nặng nhưng không ảnh hưởng gì. Hơn nữa, tôi từng là phi công lái máy bay chiến đấu nên không áp lực tâm lý gì ghê gớm”, cựu phi công tâm sự.

Khi bay trời đang tối, lúc có ánh sáng thì Phạm Tuân đã vào vùng biển Nhật Bản, đi một lúc thì thấy hình ảnh trái đất, bờ biển rồi vào đất liền và núi non trùng điệp. Với vai trò phi công thí nghiệm, kỹ sư của con tàu, Phạm Tuân ngồi ở vị trí lái phụ, chịu trách nhiệm toàn bộ thông số của con tàu. Khi xảy ra tình huống gì thì ấn những nút giúp chỉ huy xử lý.

Con tàu vũ trụ đi 9 phút (540 giây) thì lên đến quỹ đạo của vũ trụ và một ngày sau mới lắp ráp xong trạm vũ trụ. Khi vào trong vũ trụ rồi, hai phi công cùng làm việc, thực hiện các thí nghiệm mà ở dưới đất đã làm. Đó là các thí nghiệm về hợp kim, tách các đơn chất trong hợp chất, rồi từ đơn chất làm thành hợp chất. Nếu như ở dưới có sức hút trái đất nên các phân tử có trọng lượng, đun nóng chảy thì nặng chìm xuống, nhẹ nổi lên, thì trên vũ trụ không trọng lượng nên phân tử đan xen với nhau.

Hay thí nghiệm về tách hợp chất, nếu dưới đất thì nung nóng rồi dùng lực hút, lực li tâm, thì trong vũ trụ sẽ nung nóng rồi đặt nhiệt độ giảm dần, nếu nhiệt độ đông đặc của chất nào thấp nhất thì sẽ đông cuối cùng. Ngoài ra, các phi công trên vũ trụ cũng tận dụng độ cao để quan sát bề mặt trái đất xem mũi đứt gãy ra sao để phán đoán vị trí các mỏ khoáng sản, quan sát sông xem chảy theo hướng nào, nơi nào ngoài đại dương tập trung nhiều cá để hướng dẫn ngư dân, quan sát các hành tinh xa… Sự truyền sóng điện tử cũng được quan sát xem từ biển vào đất liền có khúc xạ bờ biển ra sao để hiệu chỉnh đài máy bay, dẫn dắt tên lửa…

“Ở vòng thứ hai mươi con tàu bay qua địa phận Việt Nam, dù chỉ vài giây thôi nhưng các phi công vũ trụ đều dành cho tôi vị trí quan sát tốt nhất để chụp được hình ảnh Việt Nam nhìn từ vũ trụ. Có lần đi qua Hà Nội, tôi được gửi điện xuống thủ đô với nội dung người con của Việt Nam đang bay qua bầu trời Tổ quốc, xin gửi lời hỏi thăm và cảm ơn nhân dân đã tạo điều kiện để tôi được bay vào vũ trụ”, tướng Tuân kể.

Theo cựu phi công, cuộc sống bị đảo lộn hoàn toàn khi lên đến vũ trụ. Nước mang từ mặt đất lên chỉ đủ cung cấp mỗi người 2 lit một ngày. Trong điều kiện không trọng lượng, việc di chuyển và làm việc cũng khó khăn, ăn uống chỉ có đồ khô, đồ hộp. Tuy nhiên, sự khó chịu chỉ xuất hiện trong ngày đầu, các phi công nhanh chóng thích nghi và hứng thú với công việc bên ngoài trái đất.

“Sau gần 8 ngày, chúng tôi trở lại mặt đất. Bước khỏi tàu là cảm giác rất nặng nề, tay không nhấc lên được, cầm đũa khó, đi khó vì trở lại cuộc sống có sức hút trái đất. Dù mất vài ngày mới quay lại trạng thái bình thường song những trải nghiệm ở vũ trụ thật thú vị và tôi không thể nào quên được”, anh hùng Phạm Tuân nói.

Sau khi trở về từ vũ trụ, Phạm Tuân ở lại Liên Xô hơn một tháng, đúng dịp quốc khánh thì về nước. Mặc dù vậy, mối quan hệ với những người bạn Nga, đặc biệt là người đồng hành trên con tàu vũ trụ Viktor Vassilyevich Gorbatko của ông vẫn khăng khít. Hàng năm, những người lính già vẫn vượt quãng đường xa xôi để thăm hỏi nhau.

Theo IONE

Trường Sa

Hai hai tuổi chưa cầm tay con gái,
Chưa đặt môi hôn, vì mải lên đường.
Trường Sa xanh không khói lửa chiến trường,
Máu vẫn đổ để em tôi hò hẹn,
Tôi nằm xuống như lời thề đá chém,
Đừng âm mưu xâm lấn biển quê hương!