Tại sao Việt Nam liên tục “nhai đi nhai lại” các thông điệp phản đối Trung Quốc?

BBT xin được trích đăng bài viết của Blogger Nguyễn Ngọc Long để giải đáp một phần nào những thắc mắc của độc giả về những phản ứng của Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam khi liên tục lặp lại thông điệp phản đối (theo cách gọi của cư dân mạng là “nhai đi nhai lại”) cũng như Chính phủ Việt Nam “nhu nhược” trước những hành động ngang ngược của Trung Quốc trong thời gian qua. Bài viết được dựa theo những điều “mắt thấy tai nghe” trong chuyến đi Trường Sa của “Hot Blogger” này.

Sau đây mời Quý độc giả theo dõi bài viết:

TRƯỜNG SA – HOÀNG SA VÀ NHỮNG CHUYỆN CHƯA BAO GIỜ KỂ

Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lương Thanh Nghị

Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lương Thanh Nghị

Hôm trước, mình đặt câu hỏi về việc các bạn suốt ngày phê phán Người phát ngôn Bộ Ngoại Giao Việt Nam “nhai đi nhai lại” các thông điệp phản đối khi Trung Quốc có hành vi xâm phạm chủ quyền của Việt Nam, vậy theo các bạn chúng ta phải làm gì? Thật bất ngờ khi câu hỏi này thu hút một số lượng lớn các bạn vào thảo luận và đưa ý kiến cực kỳ nghiêm túc. Theo đó, hàng trăm comments đã được gửi lên. Tổng hợp lại thì có các ý lớn thế này:

1. Việc “nhai đi nhai lại” này là cần thiết để mai mốt nếu Việt Nam có kiện ra tòa án Quốc Tế thì cũng có bằng chứng.
2. Các bạn tin tưởng tuyệt đối vào sách lược của Chính phủ trong vấn đề biển đảo. Dù có những cái các bạn vẫn thấy “mơ hồ” nhưng các bạn cho rằng nếu làm cho mọi thứ “rõ ràng” hơn thì không còn gì gọi là bí mật và khi đó Trung Quốc có thể dễ dàng đối phó.
3. Ủng hộ việc dùng vũ lực
4. Kiện ra tòa án quốc tế
5. Tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế
6. Tăng cường hỗ trợ giúp ngư dân bám biển
7. Thoát khỏi tầm ảnh hưởng của Trung Quốc về kinh tế, chính trị và văn hóa
8. Tăng cường năng lực quân sự

Mình cực kỳ trân trọng các ý kiến đóng góp kèm theo những giải thích, lập luận xác đáng của tất cả các bạn. Còn trong phạm vi những gì mình hiểu biết thông qua tự tìm tòi nghiên cứu, phỏng vấn những người có ảnh hưởng, có uy tín trong xã hội và Chính phủ, thông qua thực tế mắt thấy tai nghe khi ra Trường Sa và tiếp xúc với các chiến sĩ, mình xin được cung cấp thêm thông tin thế này để các bạn tham khảo nhé.

1. Trung Quốc là nước lớn, mạnh hơn Việt Nam về mọi mặt như Kinh tế, Quân sự, Vũ khí, Đạn dược và tiếng nói trong Cộng đồng Quốc tế. Nếu “đánh nhau” tay đôi, thắng thua không biết, nhưng chắc chắn phía chịu thiệt hại nặng nề là Việt Nam của chúng ta. Khi nói chuyện với các tướng lĩnh từ cấp thấp đến cấp vừa, cấp cao của Việt Nam, mình phải ghi nhận một điều là chẳng ai “run sợ” nếu buộc phải sa vào tình thế chiến tranh. Chúng ta “anh hùng” 1, họ anh hùng gấp 1 triệu lần. Khi chúng ta hứa hẹn này kia trên bàn phím, họ đã và đang anh hùng bằng những hành động và việc làm thiết thực.

Các bạn có biết trong một chuyến đi đón công binh làm nhiệm vụ xây dựng từ một đảo chìm về lại đất liền, tai nạn đã xảy ra. Không rõ vì lý do gì mà chiến sĩ công binh này mất tích (có giả thiết trượt trân ngã rơi xuống biển khi đang câu cá). Rất nhiều tàu cứu hộ đã được phái ra vùng biển đó cấp tốc tìm kiếm trong nhiều ngày trước khi chấp nhận mất đi 1 người đồng đội. Dù đó là điều không ai mong muốn nhưng toàn bộ các chiến sĩ có mặt trên tàu cũng như các cấp chỉ huy tại đất liền đã bị kỷ luật từ quân đến tướng. Mất vạch, mất sao và nhiều hình thức kỷ luật cộng thêm khác nữa. Kể chuyện này để các bạn hiểu rằng mạng sống con người không phải là thứ để mang ra làm chuyện mua vui như vậy được. Mình nhấn mạnh, đó là sự mất mát của chỉ duy nhất 1 người.

Các bạn có biết khi Trung Quốc cử tàu hộ tống mang dàn khoan khổng lồ cao hàng trăm mét ra tìm cách thả xuống biển Đông để khai thác dầu khí, chiến sĩ của chúng ta trên các nhà giàn đã phải thay nhau theo dõi ngày đêm, kết hợp chặt chẽ với chỉ huy tại đất liền để giám sát nhất cử nhất động của tàu địch. Nếu bất cứ khi nào đội tàu hộ tống này có dấu hiệu ngưng lại tại vùng biển chủ quyền của Việt Nam thì lập tức chúng ta phải cử tàu chiến ra “xua đuổi” không cho dàn khoan này được thả xuống dù với bất cứ lý do gì. Chúng ta “tuyệt đối yếu” hơn đối phương, trong khi chúng lại thường xuyên gây hấn, kích động để Việt Nam “ra tay” trước. Khi ấy, chúng sẽ có lý do hợp pháp để đánh chiếm vào những hòn đảo của chúng ta.

Nếu tình huống xấu nhất là Trung Quốc chiếm thành công 1 đảo của Việt Nam (điều này khó có khả năng xảy ra) thì chúng ta sẽ làm gì? Lên tiếng nhờ cộng đồng quốc tế ủng hộ mình ư? Cũng được, nhưng Trung Quốc sẽ ngay lập tức la làng lên rằng họ không đi xâm lược, không đi đánh chiếm đảo của Việt Nam. Họ chỉ đang “đòi lại” những gì thuộc về “chủ quyền bấy lâu nay” của họ. Trung Quốc sẽ ngay lập tức ngang ngược nói rằng chính Việt Nam mới đi chiếm đảo của Trung Quốc và bây giờ “bị lấy lại”. Hãy nhìn vào những gì Trung Quốc đang ngày đêm bắc loa tuyên bố một cách trơ trẽn về Hoàng Sa sẽ hiểu điều mình nói. Tất cả những gì Trung Quốc CẦN, CẦU MONG VÀ CHỜ ĐỢI LÚC NÀY chính là một hành động thiếu kiềm chế bất kỳ từ phía Việt Nam để họ có thể đàng hoàng phát pháo. Và đó cũng chính là điều mà tất cả chiến sĩ của chúng ta ngoài hải đảo phải thuộc nằm lòng. Phải luyện chí rèn gan, giữ vững lập trường và kiên định để tránh tuyệt đối phạm vào sai lầm như vậy.

2. Còn về vấn đề kiện tụng, ngay khi ngồi ở trên tàu ra Trường Sa mình đã hỏi một luật sư có tiếng. Cô ấy nói Việt Nam không thể nào làm như vậy được. Thứ nhất, chúng ta đang bị lệ thuộc quá nhiều vào Trung Quốc (bạn nào có comment ý này vô cùng chuẩn xác). Nếu chúng ta chỉ cần “lên gân” với Trung Quốc thì có thể hàng chục triệu gia đình sẽ lâm vào cảnh lầm than bằng những đòn đánh vào kinh tế. Để thoát ra khỏi sự lệ thuộc này, cần rất nhiều nỗ lực và thời gian. Thứ hai, ngay cả nếu chúng ta “kiện thắng” thì tòa án Quốc tế cũng không có chức năng hành pháp. Họ CHỈ CÓ THỂ KÊU GỌI bên “thua kiện” thực hiện điều ABC nào đó. Tòa án Quốc tế không giống như tòa án trong nước để có thể có chế tài buộc ông A bà B nào đó phải vào tù hay ông C phải bồi thường cho bà D vài chục triệu, trả lại tang vật trong vụ án v.v… Tức là đừng quá kỳ vọng việc tòa án Quốc tế sẽ giúp chúng ta bảo vệ chủ quyền biển đảo.

Ai đó nói rằng chúng ta cần “đánh động” thì xin thưa, việc đi kiện tụng như thế chẳng đánh động được cái gì ngoài việc khiến cho Trung Quốc có cớ sử dụng các đòn trừng phạt phi quân sự nhắm tới Việt Nam. Cùng với đó, họ sẽ dùng ảnh hưởng của mình để gây sức ép lên cộng đồng Quốc tế và cô lập Việt Nam, bao vây kinh tế v.v… Trong khi đó, cái mà chúng ta cần nhất bây giờ là tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng Quốc tế. Thế nên phương án kiện là KHÔNG NÊN VÀ KHÔNG THỂ, vì chúng ta sẽ bị hại nhiều hơn lợi. Và cũng cần nói thêm rằng việc “tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng Quốc tế” không đồng nghĩa với việc phụ thuộc hoàn vào vào một “Quốc gia đồng minh” nào cả. Thật ngây thơ khi cho rằng Mỹ, hay Nga hay Nhật sẽ giúp chúng ta một cách vô tư và họ chẳng có ý đồ gì trong đó. Nên nhớ, tiền của dân nước ngoài ta đóng thuế, máu của binh sĩ người ta không có mang qua “cúng chùa” cho Việt Nam đâu ạ. Điều này sẽ rất dễ để hình dung ra được khi các bạn tránh được việc đồng nhất giữa việc bảo vệ chủ quyền biển đảo với việc “chống một mình Trung Quốc”.

Các ý như tăng cường sức mạnh quân sự, tăng cường trợ giúp ngư dân bám biển thì Việt Nam đã và đang làm rất tốt. Còn phải làm đến thế nào mới thỏa lòng tất cả mọi người thì đó là câu hỏi không thể có đáp án chung. Cách đây 4 năm, việc di chuyển từ tàu hải quân vào tiếp cận nhà giàn được thực hiện bằng… dây thừng! Hiện nay chúng ta đã có xuồng CQ có thể vào tận nơi một cách dễ dàng. Trước kia các chiến sĩ phải phấn đấu cả 6 tháng trời để được một lần gọi bộ đàm về liên lạc với đất liền thì ngày nay, 100% đảo nổi đảo chìm và nhà giàn của chúng ta được trang bị trạm thu phát sóng vệ tinh của Tập đoàn viễn thông. Chúng ta có cả hệ thống liên lạc internet đủ mạnh để thực hiện họp online, chữa bệnh từ xa. Đời sống ở Trường Sa giờ đây đã hoàn toàn thay đổi.

Nhà giàn mới bên cạnh nhà giàn cũ

3. Ngày trước, mỗi khi đọc tin Trung Quốc khai trương một tòa nhà nào đó ở quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam mà họ đang chiếm đóng phi pháp, mình rất cay cú và tự hỏi “tại sao một việc đơn giản thế mà Việt Nam không làm, cứ để cho Trung Quốc một mình một chợ?”. Ngày hôm nay thì thấy nó khởi công xây nhà. Ngày mốt thì thấy nó rồng rắn đưa người ngựa ra đốt pháo khánh thành. Ngày sau nữa lại thấy nó làm sân bay. Ngày sau sau nữa lại thấy nó đưa khách ra tham quan du lịch? VẬY TẠI SAO VIỆT NAM KHÔNG CHỊU LÀM NHƯ VẬY MÀ CỨ PHẢN ĐỐI LÊN PHẢN ĐỐI XUỐNG LÀM GÌ???

Và đến khi mình được nghe chuyện về lực lượng công binh, là những người đi phá mìn mở đường xây nhà trên đảo thì mình đã tự có câu trả lời rồi. Tóm lại một cách đơn giản và dễ hiểu thì xây nhà trên đất liền khó 1 thì đặt một viên đá trên mặt biển khó gấp 1 vạn lần. Mình ước gì tất cả các bạn có thể tận mắt chứng kiến nhà giàn có 8 cây cột thép choài ra làm “chân chống” với mỗi cây cột có đường kính khoảng chừng nửa mét, lại được giằng thêm hàng chục cây thép nhỏ hơn để đan kết vào nhau sừng sững giữa bạt ngàn sóng nước. Và nếu các bạn biết rằng cách đó 4 năm, những nhà giàn vững chắc kiên cố như một tòa lâu đài thép đã bị kéo đổ nhào xuống biển, mang theo cả một tiểu đội mãi mãi không bao giờ trở về được đất liền, các bạn sẽ “cảm”được một phần của công việc xây cất ở nhà giàn cũng như trên các đảo.

Vác đá xây Trường Sa

Hãy thử hình dung, nếu bạn đang ở giữa một đảo san hô, xung quanh ngập nước chừng 1m, xuồng CQ không thể nào tiếp cận, tàu hộ tống chở theo nguyên liệu là xi măng đá tảng buộc phải neo đậu cách đó chừng 5km thì bạn sẽ làm thế nào để mang vác được xi măng, gạch, đá, sắt thép rồi canh thủy triều lên xuống để đổ cho được một cây cọc bê tông đầu tiên xuống rồi “khô lại” giữa lòng biển khơi? Hãy cố hình dung đi. Chỉ cần hình dung với nhiệm vụ là một cây cọc bê tông duy nhất chứ chưa nói tới những gì lớn lao to tát. Khi đã lờ mờ tìm ra một cách làm nào đấy, bạn sẽ tự có câu trả lời cho câu hỏi “đơn giản” được bôi hoa toàn bộ ở phía trên.

Cũng có thể tiết lộ với các bạn rằng ở phạm vi bán kính chừng 1km quanh các đảo (thay đổi tùy theo diện tích) là cơ man các cọc bê tông sừng sững để sẵn sàng “nghênh chiến” với các loại tàu thuyền… [Các chi tiết sâu hơn liên quan đến vũ khí và hệ thống chiến đấu, phòng thủ ở đoạn này đã bị cắt ]. Thực sự, nếu được đặt chân lên một đảo tại Trường Sa, các bạn sẽ biết rằng “Việt Nam tuy không hiếu chiến, nhưng để đánh được vào các đảo của Việt Nam là cả một vấn đề”.

Việt Nam tuy không hiếu chiến, nhưng để đánh được vào các đảo của Việt Nam là cả một vấn đề!

Việt Nam tuy không hiếu chiến, nhưng để đánh được vào các đảo của Việt Nam là cả một vấn đề!

4. Cũng trong chuyến đi 10 ngày lênh đênh trên biển, có một sự bất ngờ tới mức “gây sốc” cho toàn bộ đoàn công tác. Đó là dù quan sát ở bất cứ góc độ nào, cũng chỉ thấy có ta và.. ta và… biển. Thế nhưng ngay khi tàu HQ960 “tình cờ” chạm trán với tàu hải giám Trung Quốc (bẻ lái cắt ngang vuông góc) thì ngay lập tức thấy lù lù 2 tàu chiến của Hải quân Việt Nam xuất hiện. Tất cả mọi người đều không biết các tàu chiến này ở đâu ra, và càng sốc hơn nữa khi được cho biết họ đi theo bảo vệ đoàn công tác ngay từ khi rời cảng!!! Chưa hết, khi đặt chân lên tới An Bang, mình còn được tận mục sở thị một buổi huấn luyện của đặc công biển Việt Nam với hành trình bơi hàng chục km mỗi ngày luyện tập mang theo vũ khí đổ bộ vào đảo và hiệp đồng tác chiến với các chiến sĩ tại trận địa. Có thể tin hay không tùy bạn, nhưng họ còn có khả năng nằm im dưới nước sâu trong suốt nhiều giờ đồng hồ cho đến khi được lệnh tiếp tục “hành quân”vào đảo.

Bộ đội hải quân Việt Nam tập luyện tại Trường Sa.

Tuy nhiên, tất cả các trang thiết bị vũ khí, súng ống đạn được, quân lính tinh nhuệ… của chúng ta không phải được sinh ra để tấn công mà là phòng thủ. Việt Nam còn yếu, nên chủ trương của chúng ta là đối thoại và hợp tác, dựa trên việc thu thập, củng cố rồi tuyên truyền các bằng chứng lịch sử để tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng Quốc tế. Việt Nam không bao giờ đối đầu, không bao giờ dùng vũ lực, không bao giờ “phát pháo” trước trong mọi tình huống để kẻ thù có thể dựa vào làm nguyên nhân gây chiến. Trong khi đó, chúng ta bằng mọi giá bảo vệ chủ quyền tất cả những đảo chìm, đảo nổi, bãi cạn… mà chúng ta đang có. Luôn luôn bày tỏ quan điểm phản đối, nêu rõ chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán không thể tranh cãi của Việt Nam với các đảo, quần đảo, bãi cạn mà chúng ta thực sự có chủ quyền, BAO GỒM CẢ NHỮNG NƠI ĐÃ BỊ KẺ THÙ DÙNG VŨ LỰC CHIẾM ĐÓNG TRÁI PHÉP (trong lịch sử). Điều mà các bạn hay gọi là “nhai đi nhai lại”.

5. Liên quan đến việc tàu cá Việt Nam bị Trung Quốc ngăn chặn, xua đuổi, bắn phá khi khai thác trong khu vực quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa và tàu cá Trung Quốc ngang ngược tiến vào quần đảo Trường Sa của Việt Nam để đánh bắt trái phép thì do chính những nhà báo của mình NHIỀU KHI không nắm rõ thông tin nên việc tuyên truyền dễ gây ra những nhầm lẫn căn bản.

Đầu tiên phải hiểu thế này. Trường Sa và Hoàng Sa là quần đảo tức là gồm nhiều đảo nhỏ. Với mỗi đảo thì chúng ta lại có rất nhiều thuật ngữ liên quan đến việc xác lập chủ quyền, nhưng gần gũi nhất có lẽ là “lãnh hải”. Nếu chỉ xét riêng về lãnh hải, thì các bạn cứ tạm hiểu như một vòng tròn kim cô xung quanh các đảo. Nếu chúng ta xác lập chủ quyền ở 1 đảo, thì mặc nhiên chúng ta có thêm chủ quyền ở một đường biên lớn hơn chạy xung quanh đó nữa.

Tập hợp các đường viền như vậy ở tất cả các đảo mà chúng ta có chủ quyền nó sẽ là nơi chúng ta mặc nhiên đi lại và khai thác. Chứ không phải cứ lấy cây bút rồi khoanh một vòng “to đùng” bao hết các đảo lại cho rằng đó là vùng bất khả xâm phạm của mình. Vậy nên chủ quyền của chúng ta sẽ là một vùng thực sự rất… loằng ngoằng, có chỗ thì chồng chéo, có chỗ bị “hở” ra. Và theo luật, cái chỗ hở đó là hải phận quốc tế. Dù nhìn vô bản đồ nó có vẻ nằm hoàn toàn trong “khu vực” quần đảo Trường Sa.

Chưa hết, trong lịch sử một số đảo chúng ta đã bị Trung Quốc dùng vũ lực chiếm đi. Cho nên, dù cái đường vòng quanh đảo đó là lãnh hải của Việt Nam nhưng trong thực tế nếu tầu thuyền của ngư dân đi vào đó thì sẽ bị xua đuổi và bắn phá. Tức là các tàu đó bị bắn phá do xâm phạm vào “lãnh hải có được vì chiếm đóng trái phép” của Trung Quốc, nhưng lại là “lãnh hải dựa trên cơ sở pháp lý quốc tế và căn cứ lịch sử không thể tranh cãi” của Việt Nam. Cho nên báo chí sẽ phải đưa tin là tàu cá ngư dân bị bắn trong vùng lãnh hải “của Việt Nam”. Thậm chí Bộ Ngoại Giao cũng phải tuyên bố như vậy. Và chính sự nhập nhằng này cũng khiến nhiều người cho rằng chúng ta quá hèn kém khi để cho ngư dân bị vạ lây như vậy.

Tương tự với việc Trung Quốc xua đội tàu cá hàng chục chiếc “tràn vào khu vực Trường Sa và Hoàng Sa” của Việt Nam để đánh bắt trái phép. Trong thực tế, quanh năm suốt tháng đều có tàu cá của Trung Quốc “mon men”đến gần các đảo của Việt Nam. Và khi này, chắc chắn 100% chiến sĩ trên đảo sẽ theo quy trình để có hành động xua đuổi thích hợp và mức cao nhất là sẵn sàng chiến đấu không khoan nhượng nếu việc xua đuổi không thành công.

Huấn luyện sẵn sàng chiến đấu trên đảo Song Tử Tây

Tuy nhiên, nếu các tàu cá này đi vào những vùng “lỗ thủng” của lãnh hải đan xen giữa các đảo thì thực tế không xâm phạm lãnh hải Việt Nam nhưng vẫn coi là “ùa vào khu vực quần đảo Trường Sa của Việt Nam được”. Điều tương tự xảy ra nếu các tàu này đi vào lãnh hải của các đảo thuộc chủ quyền Việt Nam nhưng bị đánh cướp bằng vũ lực và chiếm đóng trái phép trong quá khứ. Chưa kể theo thông lệ quốc tế, nếu tàu họ “vô tình” đi vào một vùng lãnh hải nào đó thực sự hoàn toàn thuộc Việt Nam thì mình cũng không thể nào ra bắn phá mà trước tiên là xua đuổi. Và trong đại đa số các trường hợp, khi mình xua đuổi thì nó sẽ dời đi. Nhưng báo chí vẫn coi đấy là việc ùa vào vùng lãnh hải của Việt Nam.

6. Tóm lại những việc mà chính phủ đang làm – THEO CÁ NHÂN MÌNH ĐÁNH GIÁ – là hoàn toàn đúng đắn về đường lối chính sách, phù hợp với tình hình thực tế hiện nay của đất nước. Sau khi đi thực tế, theo cách gọi của đoàn công tác, là “thăm và kiểm tra các đảo” thì phải nói là mình hoàn toàn yên tâm rằng ít nhất là các đảo mình đang giữ sẽ khó mà bị Trung Quốc đánh chiếm. Những sự vi phạm chủ quyền theo dạng quấy nhiễu của Trung Quốc chúng ta đều có quy trình đối phó an toàn nhất.

Về phía cộng đồng quốc tế, chúng ta đang làm cực tốt việc “nhai đi nhai lại bài ca phản đối” mọi lúc mọi nơi, trên mọi phương diện dù sự vi phạm có lớn như con voi hay nhỏ như con kiến. THEO THÔNG LỆ LUẬT PHÁP QUỐC TẾ, ĐIỀU ĐÓ LÀ CỰC KỲ QUAN TRỌNG! Chúng ta cũng chấp nhận việc “gây hiểu lầm” về năng lực bảo vệ ngư dân hay năng lực phòng thủ khi sẵn sàng ra tuyên bố chủ quyền ngay cả trong trường hợp thực ra chúng ta chỉ bị vi phạm chủ quyền theo lý thuyết. Theo mình, đây là một đánh đổi cực kỳ quan trọng và dũng cảm. Các bạn hãy đọc thật kĩ phần trên để hiểu và cùng đi giải thích cho nhiều người khác cùng hiểu nữa.

Blogger Nguyễn Ngọc Long

Blogger Nguyễn Ngọc Long

Việc tốt nhất mà mỗi người chúng ta có thể chung tay, theo mình chính là nâng cao nhận thức, kiến thức về luật biển, về UNCLOS, phải hiểu được lãnh hải là gì, đường cơ sở là gì, cơ sở xác lập chủ quyền biển đảo thế nào, vùng nội thủy là gì, vùng đặc quyền kinh tế là gì, thềm lục địa là gì, thềm lục địa mở rộng là gì… v.v… và v.v… Chừng nào làm được như vậy chúng ta mới mong hiểu đúng, hiểu rõ và hiểu sâu về tình hình chiến sự tại Biển Đông. Mới không hoang mang khi tiếp nhận thông tin từ những nhà báo thực ra nhiều khi cũng chưa hiểu sâu về biển đảo, từ những thông tin mà Nhà nước buộc phải nói theo kiểu khiến người dân nghe vô sẽ tự nhiên thấy hoang mang. Và quan trọng nhất là đủ tỉnh táo để phân biệt đúng sai, mức độ chính xác của thông tin từ những nguồn tin không thiện chí!

Lòng yêu nước – Ilya Ehrenburg

Lòng yêu nước ban đầu là yêu những vật tầm thường nhất: yêu cái cây trồng ở trước nhà, yêu cái phố nhỏ đổ ra bờ sông, yêu vị thơm chua mát của trái lê mùa thu hay mùa cỏ thảo nguyên có hơi rượu mạnh…

Lòng yêu nước là một tùy bút của nhà văn Ilya Ehrenburg (1891 – 1965) đăng trên báo Thử lửa vào ngày 26/6/1942, trong bối cảnh cuộc Chiến tranh Vệ quốc của nhân dân Xô viết đang diễn ra khốc liệt. Tác phẩm được đánh giá là một Thiên tùy bút trữ tình và tráng lệ nhất mọi thời đại và đã được đưa vào chương trình giảng dạy cho học sinh tại nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam.

Hiện tại, bài Lòng yêu nước với ngòi bút dịch của Thép Mới được đăng trong sách giáo khoa “Ngữ Văn 6”, tên ông được ghi với bản phiên dịch là I-li-a Ê-ren-bua

Dưới đây là toàn văn tác phẩm:

LÒNG YÊU NƯỚC

Lòng yêu nước ban đầu là yêu những vật tầm thường nhất: yêu cái cây trồng ở trước nhà, yêu cái phố nhỏ đổ ra bờ sông, yêu vị thơm chua mát của trái lê mùa thu hay mùa cỏ thảo nguyên có hơi rượu mạnh. Chiến tranh khiến cho mỗi công dân Xô viết nhận ra vẻ thanh tú của chốn quê hương. Người vùng Bắc nghĩ đén cánh rừng bên dòng sông Vina hay miền Xu-cô-nô, thân cây mọc là là mặt nước, nghĩ đến những đêm tháng 6 sáng hồng và tiếng “cô nàng” gọi đùa người yêu. Người xứ Ukraina nhớ bóng thuỳ dương tư lự bên đường, cái bằng lặng của trưa hè vàng ánh, vào lúc ấy, đời sống thấy đầy đủ và phong phú thay, vào lúc ấy, thời gian dường như không trôi đi nữa. Chỉ có tiếng ong bay khẽ xua động cái yên lặng trọng thể. Người xứ Gruzia ca tụng khí trời của núi cao, những tảng đá sáng rực và nỗi vui bất chợt của một dòng suối óng ánh bạc, vị mát của nước đóng thành băng, rượu vang cay sẽ tu trong bọc đựng rượu bằng da dê, những lời thân ái giản dị và những tiếng cuối của câu chào tạm biệt vọng lại. Người ở thành Leningrad bị sương mù quê hương ám ảnh, nhớ dòng sông Neva rộng và đường bệ như nước Nga đường bệ, nhớ những tượng bằng đồng tạc những con chiến mã lồng lên, và lá hoa rực rỡ của công viên mùa hè, nhớ phố phường mà mỗi căn nhà là một trang lịch sử. Người Moskva nhớ như thấy lại những phố cũ chạy ngoằn ngoèo lan man như một hoài niệm, để rồi đổ ra những đại lộ của thành phố mới. Xa nữa là điện Kremlin, những tháp cổ ngày xưa, dấu hiệu vinh quang của đất nước Nga và những ánh sao đỏ của ngày mai.

Dòng suối đổ vào sông, sông đổ vào dải trường giang Volga, con sông Volga đi ra bể. Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc. Có thể nào quan niệm được sức mãnh liệt của tình yêu mà không đem nó vào lửa đạn gay go thử thách. Người ta giờ đây đã hiểu lòng yêu của mình lớn đến dường nào, yêu người thân, yêu Tổ quốc, yêu nước Nga, yêu Liên bang Xô Viết. Điều đó ta đã hiểu, khi kẻ thù giơ tay khả ố động đến Tổ quốc chúng ta. Ai là kẻ chẳng cảm thấy, mùa thu qua, điểu giản dị này: “Mất nước Nga thì ta còn sống làm gì nữa?”.

Tại sao tinh thần Risa Gơ-rô-men rữa nát trứơc khi hắn bị một chiến sĩ Xô viết giết chết? Bởi vì cuộc chiến tranh Hitle đương gây nên kia không có linh hồn. Có những tiểu thuyết trinh thám và cso những người ưa đọc thứ văn chương ấy. Cố truyện trinh thám chẳng có gì rắc rối: hung phạm gây nên những tội khổng lồ, thám tử truy nã. Hai bên rút súng bắn nhau, giết nhau và cùng dấn thân vào chỗ nguy hiểm. Vậy mà người đọc thấy họ chết như thế là một chuyện thường của nghề họ. Thế thôi. Kẻ gian và thám tử có thể làm những chuyện liều lĩnh, song chẳng ai bảo chúgn là anh hùng. Chúng để hết tâm trí vào công việc, song công việc của chúng chẳng có hồn. Lịch sử quên ngay tên những hung phạm có tài, những kẻ mạo hiểm thần tình. Lịch sử giữ lại những tên khác: tên những người bỏ mình vì một lý tưởng, vì nhân dân, vì loài người, cho một xã hội mới tốt đẹp hơn. Khí cụ chiến tranh của quân đội Xô viết có thể giống khí cụ chiến tranh của quân đội Đức. Chiến lược hai bên có những điểm gặp nhau. Song chẳng có gì là giống nhau giữa một người lính Hồng quân và một người lính quân đội Hitle. Người anh hùng và đứa hung phạm, con người dũng cảm bảo vệ Tổ quốc và quân sát nhân nhà nghề là hai thế giới không đội trời chung.

Chúng ta đã biết Risa đã đem theo xuống dưới mồ hắn những mối nghĩ gì. Đối lại những điều hắn nghĩ, chúng ta có thể đem thuật lại câu chuyện 5 người thuỷ quân đã chết, anh dũng bảo vệ Sebastopol. Họ đã ôm lấy nhau, gửi nhau lời chào vĩnh biệt và quấn lựu đạn vào người, lăn ra cản xe tăng địch. Người ta thường nói đến thắng cái chết. Điều đó làm tôi nghĩ đến không phải những công trình của nhà bác học đương lo tính cách kéo dài đời sống con người mà nghĩ đến 5 người thuỷ quân đỏ, tràn ngập vui sướng và say sưa yêu mến sự sống. Đấy chẳng là chíên thắng cái chết đáy ư! Đấy chẳng là bất tử đấy ư! Chiến công 5 người thuỷ quân đỏ đã không những chỉ ngăn cuộc tấn công của quân thu: nó thổi một nguồn sống mới vào lòng triệu con người, nó đã mở rộng và luyện chắc linh hồn nước Nga, nó sống mãi giữa những trận chiến đấu ác liệt nhất trong năm nay; nó còn sống cả sau ngày thắng lợi giữa muôn hoa rực rỡ tung nở trên khắp các đồng quê và trong những giọng hát trong trẻo nhất của một bầy thiếu nữ đồng quê.

26.6.1942

Đấu tranh chủ quyền: Không thể nóng vội và thiển cận

Ở Việt Nam, cũng như ở Trung Quốc, độc giả chuộng những bài thể hiện tinh thần yêu nước, mà ít chú ý đến chuyên môn luật biển. Tinh thần yêu nước, rất cần khuyến khích, nhưng về mặt chuyên môn, cũng cần phải cân nhắc nhiều.

Cuộc trao đổi của với nhà nghiên cứu Việt Long, một trong số ít học giả Việt Nam có các bài viết được xuất bản trên các tạp chí nghiên cứu quốc tế.

Củng cố chứng cứ pháp lý

Các nhà nghiên cứu Biển Đông mà tôi gặp như GS-TS Sử học Vũ Minh Giang, Phó Giám đốc Đại học Quốc gia, đến những nhà nghiên cứu độc lập như Phạm Hoàng Quân, hay Hoàng Việt, đều cho rằng dường như thiếu một nhạc trưởng để phối hợp các nhánh nghiên cứu khác nhau, sao cho hiệu quả nhất. Ông có đồng ý với họ không?

– Theo tôi, điều đó còn khiến chúng ta chưa phân bổ nguồn lực một cách hợp lý nhất. Chẳng hạn, theo quan điểm của tôi, về mặt lập trường nguyên tắc, chúng ta có đầy đủ bằng chứng lịch sử để khẳng định hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam. Nhưng nói đến lịch sử không đủ, mà phải là các bằng chứng pháp lý lịch sử.

Cần có sự phân biệt giữa chứng cứ lịch sử và chứng cứ pháp lý. Chứng cứ pháp lý phải xuất phát từ các hoạt động của nhà nước, tức là việc thực thị chủ quyền phải xuất phát từ nhà nước.

Chẳng hạn, Trung Quốc họ đưa ra các chứng tích về khảo cổ, như những đồng tiền cổ, (mà không chứng minh được nguồn gốc) rồi tuyên bố ầm ỹ lên rằng người Trung Quốc có mặt ở đó từ lâu. Nhưng ra tòa án, những chứng tích đó không có giá trị pháp lý, mà chỉ có hành động thực thi chủ quyền của một quốc gia mới có giá trị pháp lý.

Hay Trung Quốc họ nói rằng, ngay từ thời Hán Vũ Đế, ngư dân của họ đã đặt tên cho hai quần đảo trên Biển Đông. Nhưng đặt tên của ngư dân không phải là hành động thực thi chủ quyền. Bởi ai đi ngang quá đó cũng có quyền đặt tên, song đăng ký tên đó thế nào, công bố với quốc tế ra sao lại là chuyện của Nhà nước

Với Việt Nam, cuốn “Toàn tập Thiên nam Thư chí lộ Đồ thư” của Đỗ Bá, chẳng hạn, là một cuốn sách tốt. Nếu là vua sai cụ viết thì giá trị pháp lý khác hẳn so với quan tỉnh.

Hay, đối với Việt Nam, tuy đúng là đội Hoàng Sa, đội Trường Sa do Nhà nước lập ra, nhưng vẫn phải tìm những bằng chứng cụ thể hơn về phạm vi hoạt động của những đội này. Hoặc họ đã ra tới những hòn đảo đến tận Philippines chưa?

Nói chung, cần phải tiếp tục củng cố chứng cứ pháp lý để có cơ sở thuyết phục dư luận một cách chặt chẽ nhất, để không ai có thể đưa ra những ngờ vực, nghi ngại về chủ quyền Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Không phải cái gì cũng đưa lên mặt báo

Ông có nhận xét gì về đội ngũ nghiên cứu Biển Đông hiện nay của Việt Nam?

– Về nhà nước, chúng ta có Ban Biên giới, Học viện Ngoại giao. Về phi chính phủ, chúng ta có Quỹ Biển Đông gồm học giả Việt Kiều, nghiên cứu sinh và sinh viên học nước ngoài, cùng một số nhà nghiên cứu độc lập trong nước. Ở Pháp các bạn sinh viên vừa thành lập website Trí thức Biển Đông.

Theo quan điểm của tôi, tất cả các nhà nghiên cứu về Biển Đông đều có lòng yêu nước. Nhưng vấn đề này không chỉ đơn thuần là lịch sử, mà còn là pháp lý và chính trị – ngoại giao xen kẽ nhau.

Và chúng ta cũng phải ý thức được rằng tranh chấp đã trải qua bao thập kỷ nay, với nhiều biến đổi. Chính vì vậy phải quan tâm nhiều đến vấn đề pháp lý, trong khi các nhà nghiên cứu của ta thiên về lịch sử. Và như vậy rất cần có một nhạc trưởng, để thống nhất, phối hợp các hoạt động nghiên cứu của các học giả, không chỉ trong nước mà cả ngoài nước, vì mục tiêu chung bảo vệ chủ quyền biển đảo đất nước.

Chẳng hạn, có một số người, cả trong và ngoài nước, phê phán Nhà nước nhượng bộ nọ kia, thậm chí là bán đất, bán nước. Một số học giả còn lớn tiếng phê phán những ý kiến mới, hoặc cho rằng mình yêu nước hơn người khác.

Bên Trung Quốc, chẳng hạn, họ nhìn vào chúng ta sẽ như thế nào? Và liệu có ai dám đảm bảo rằng sự chia rẽ đó sẽ không bị lợi dụng?

Ở Việt Nam, cũng như ở Trung Quốc, độc giả chuộng những bài thể hiện tinh thần yêu nước, mà ít chú ý đến chuyên môn luật biển. Tinh thần yêu nước, rất cần khuyến khích, nhưng về mặt chuyên môn, cũng cần phải cân nhắc nhiều.

Chẳng hạn có nhiều bài báo của Việt kiều bên ngoài lên án Chính phủ Việt Nam trình hồ sơ ranh giới ngoài thềm lục địa lên Ủy ban Thềm lục địa của Liên hợp quốc, vào năm 2009, mà không nói đến Hoàng Sa – Trường Sa, là từ bỏ chủ quyền, là bán nước. Họ cần phải đọc kỹ về hồ sơ trình đó, về luật biển, để hiểu được tính chất phức tap của vấn đề, và những bước đi cần cân nhắc.

Trong việc này, cần tin tưởng và ủng hộ Chính phủ. Không một con dân đất Việt nào lại cam tâm bán rẻ đất nước mình. Song phương thức đàm phán, đối phó, xử lý các tình huống thế nào cho có lợi nhất thì không phải cái gì cũng đòi hỏi đưa lên mặt báo.

Tôi nghĩ, trong trường hợp này, chúng ta nên học cách ứng xử của Đài Loan với Trung Quốc. Họ không bao giờ công kích nhau cả, thậm chí còn hỗ trợ nhau vì lợi ích chung của dân tộc Trung Hoa.

Hơn nữa, chúng ta cũng phải xác định rằng máu xương người Việt, không phân biệt chiến tuyến, đã đổ xuống để bảo vệ chủ quyền. Cần góp sức với Nhà nước trong cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền.

Làm nhiều, nói ít

Tôi đồng ý với ông. Nhưng, mặt khác, dường như những cấp có thẩm quyền cũng chưa thông tin đầy đủ để dẫn tới những hiểu lầm như vậy?

– Theo tôi, Nhà nước mình cũng đầu tư rất nhiều vào việc chuẩn bị tư liệu, đấu tranh. Có những việc cần phải nói, nhưng có những việc cần phải cân nhắc, để nói vào thời điểm thích hợp.

Nhưng tôi cũng đồng ý với anh rằng Nhà nước cũng phải định hướng để dư luận đỡ bức xúc. Công tác thông tin của chúng ta còn có những bất cập, cần khắc phục. Người dân hoàn toàn có quyền lo lắng về vận mệnh đất nước, lo lắng về chủ quyền bị xâm hại, đời sống bị đe dọa, vấn đề chiến tranh và hòa bình.

Theo tôi, Nhà nước phải tạo ra các diễn đàn cho người dân trao đổi, góp ý, phải tranh thủ được sự đồng lòng của người dân. Cái khó ở đây là phải giải quyết được tốt quan hệ giữa bí mật quốc gia với quyền được cung cấp thông tin của người dân. Đáng mừng là đã có những thay đổi nhận thức về chuyện này.

Chẳng hạn, theo tôi được biết, đã có đề nghị đưa chương trình dạy về biển vào trong các trường đại học, và quá trình này mới dần dần bắt đầu thôi. Nhưng cứ thử so sánh với hơn chục năm trước, bảo người ta quan tâm đến biến khó lắm, nhưng bây giờ hoàn toàn khác.

Hay về mặt pháp lý, Việt Nam cũng đi trước trong khu vực Đông Nam Á, khi từ năm 1977, chúng ta là nước đầu tiên đã tuyên bố về thềm lục địa, vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý, phù hợp với nội dung đang bàn thảo tại Hội nghị của Liên hợp quốc về luật biển 1973-1982. Chúng ta đã giải quyết thành công rất nhiều tranh chấp biển với các nước láng giềng.

Tôi nghĩ, riêng liên quan đến biển đảo, vì lý do gì đó, chúng ta hơi quá “khiêm tốn”. Tức là “làm nhiều – nói ít”. (Cười lớn)

Xin hỏi ông câu cuối cùng. Theo ông, để ứng phó với những kế hoạch đầy tham vọng của Trung Quốc, trên mặt trận thông tin đối ngoại, Việt Nam cần phải làm những gì?

– Nhà nước cần hoàn thiện hơn định hướng công tác nghiên cứu, có chiến lược thông tin đối ngoại đầy đủ, đáp ứng được cả yêu cầu đối nội, và đối ngoại. Nhà nước phải có sự khuyến khích, và phải có kế hoạch kỹ càng về mặt nhân sự. Chẳng hạn treo giải thưởng, lập quỹ cho các sinh viên giỏi, trong những chuyên ngành liên quan đến biển đảo.

Hay, có kế hoạch đưa người mình vào các cơ quan tài phán quốc tế, như tòa án luật biển quốc tế, tòa án công lý quốc tế. Trung Quốc thì đã có, thậm chí còn là chủ tịch nữa.

Tôi nghĩ mình phải chuẩn bị mọi thứ theo hướng lâu dài, từ chương trình học của học sinh phổ thông, đến công khai hóa thông tin, hay xã hội hóa việc nghiên cứu. Và, quan trọng nhất, phải sẵn sàng tranh luận, thậm chí đương đầu, với những gì gai góc nhất.

Xin cám ơn ông.

Chùm ảnh: “Một thoáng” Trường Sa

Hai tiếng Trường Sa gợi cho chúng ta nghĩ tới một vùng biển đảo đầy nắng, gió và những khắc nghiệt của thời tiết. Nhưng bên canh một Trường Sa vất vả và anh hùng còn có một Trường Sa tươi đẹp, thân thương và bình yên. Ở đó có những người lính quả cảm đang ngày đêm canh giữ biển trời của Tổ quốc.

Chùm ảnh: Một thoáng Trường Sa
Ngọn hải đăng trên đảo Song Tử Tây
Chùm ảnh: Một thoáng Trường Sa
Để có cuộc sống bình yên, hải quân nhân dân Việt Nam luôn chắc tay súng, bảo vệ chủ quyền biển đảo thiêng liêng của tổ quốc.
Chùm ảnh: Một thoáng Trường Sa
Ngày nào ngọn hải đăng cũng được lau chùi cẩn thận như thế này để rọi sáng giữa Biển Đông
Chùm ảnh: Một thoáng Trường Sa
Đảo Song Tử Tây tươi đẹp, nhìn từ đỉnh ngọn hải đăng.
Chùm ảnh: Một thoáng Trường Sa
Đảo Song Tử Tây xanh bóng cây trong ngày biển lặng…
Chùm ảnh: Một thoáng Trường Sa
Trên đảo có những ngôi nhà được lắp pin sử dụng năng lượng mặt trời.
Chùm ảnh: Một thoáng Trường Sa
Quạt gió và pin mặt trời là nguồn cung cấp điện dồi dào cho Trường Sa.
Chùm ảnh: Một thoáng Trường Sa
Bé gái Hồ Song Tất Minh, công dân mới nhất được sinh ra tại Trường Sa.
Chùm ảnh: Một thoáng Trường Sa
Phút nghỉ ngơi của lính trẻ Trường Sa.
Chùm ảnh: Một thoáng Trường Sa
Đảo xa đón khách từ đất liền.
Chùm ảnh: Một thoáng Trường Sa
Lễ tưởng niệm các chiến sĩ hy sinh trên quần đảo Trường Sa được tổ chức trên boong tàu của tất cả những con tàu ra thăm Trường Sa.
Chùm ảnh: Một thoáng Trường Sa
Những vòng hoa tưởng niệm giữa sóng biển Trường Sa.

Những hàng cây phong ba bảo vệ Trường Sa

Giữa sóng gió huyện đảo Trường Sa, màu xanh cây cối vẫn phủ đầy chế ngự biển cả. Hiên ngang trước bão tố, cây phong ba được coi là một hình ảnh mang tính biểu tượng trên quần đảo Trường Sa của Việt Nam.

Hàng cây phong ba vững chãi đối mặt với biển, trở thành biểu tượng hiên ngang bất khuất của quân và dân Trường Sa.


Dưới bóng mát cây phong ba, đàn bò nhởn nhơ nằm nhai cỏ.


Quả phong ba có hình tròn đường kính khoảng 5-8mm, màu xanh lục


Hoa phong ba nhỏ 5mm, có màu trắng, mọc thành chùm đầu cành

Do cây có thể chịu được gió bão, nước mặn và có thể sống tốt trên bãi cát san hô nên được trồng trên đảo để chắn gió, cố định cát.

Cùng với bàng vuông, cây phong ba được coi là một hình ảnh mang tính biểu tượng trên quần đảo Trường Sa./.

Những điều cần biết về các lô nhà giàn DK1 trên 6 bãi ngầm của Việt Nam

Trải qua hơn 20 năm xây dựng lực lượng, huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ các trạm dịch vụ kinh tế – khoa học kỹ thuật DKI, cùng với các lực lượng tàu của Lữ đoàn 171, cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn DK1 luôn đoàn kết, vững vàng vượt qua mọi khó khăn gian khổ hoàn thành tốt nhiệm vụ chốt giữ, bảo vệ chủ quyền vùng biển, thềm lục địa Tổ quốc; bảo vệ an toàn các nhà giàn.

1. Tư Chính

Bãi ngầm Tư Chính nằm ở trong giới hạn khoảng từ vĩ độ 07029’03’’N – 07033’20’’N và kinh độ 109037’730’’E – 109054’58’’E, cách bãi Quế Đường 55 hải lý về phía Tây Nam. Điểm nhô cao nhất của bãi Tư Chính sâu cách mặt nước khoảng 16m, vị trí cách Vũng Tàu khoảng 229 hải lý về phía Đông Nam. Bãi ngầm Tư Chính có vị trí rất quan trọng trong xây dựng, phát triển kinh tế biển và công tác quản lý chủ quyền vùng biển trên khu vực DKI; phạm vi bãi ngầm trong khoảng độ sâu 16m đến độ sâu 200m có độ dài khoảng 57km, chiều rộng nơi rộng nhất khoảng 13km, hướng phát triển chạy dài theo hướng Đông Bắc – Tây Nam. Tư Chính là bãi ngầm lớn, ở cạnh đường hàng hải quốc tế, nên có vị trí rất quan trọng đối với việc tổ chức lực lượng thực hiện các nhiệm vụ quốc phòng, an ninh trên biển và quản lý, bảo vệ chủ quyền vùng biển của Tổ quốc.

Thực hiện chủ trương xây dựng Cụm kinh tế – khoa học – dịch vụ (DK1), từ ngày 22 đến 27 tháng 6 năm 1989, Tổng cục Dầu khí phối hợp với Bộ Tư lệnh Công binh tiến hành lắp dựng xong nhà giàn đầu tiên tại bãi ngầm Tư Chính (tên địa danh hành chính là Trạm kinh tế – khoa học – dịch vụ Tư Chính, thuộc tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu). Nhà giàn Tư Chính A (DKI/1) thiết kế theo kiểu chôn cột giàn khoan, đặt ở vùng nước sâu 23m, chiều cao công trình là 39,5m, cách mặt nước biển lúc triều cường là 11m; tháng 11 năm 1990, Nhà nước tiếp tục dựng lắp tại đây Trạm kinh tế – khoa học – dịch vụ Tư Chính B (nhà giàn DKI/5). Ngay sau khi xây dựng xong ngày 2 tháng 11 năm 1990, một khung cán bộ, chiến sĩ nhà giàn DKI/5 đã tiếp nhận và tiến hành các nhiệm vụ chốt giữ, bảo vệ. Ngày 5 tháng 8 năm 1994, khung đơn vị nhà giàn DKI/11 tiếp nhận Trạm kinh tế – khoa học – dịch vụ Tư Chính C (nhà giàn DKI/11). Ngày 8 tháng 8 năm 1994, khung đơn vị nhà giàn DKI/12 tiếp nhận Trạm kinh tế – khoa học – dịch vụ Tư Chính Đ (nhà giàn DK1/12). Ngày 20 tháng 4 năm 1995, khung đơn vị nhà giàn DKI/14 tiếp nhận Trạm kinh tế – khoa học – dịch vụ Tư Chính E (nhà giàn DK1/14).

Như vậy liên tục từ năm 1989 đến 1995, Nhà nước ta xây dựng 5 trạm dịch vụ trên bãi ngầm Tư Chính. Kết cấu của nhà vững chắc, có thể chống chọi, chịu đựng sóng trên cấp 12. Đến năm 1999, sau gần 10 năm dựng lắp và hoạt động trong môi trường tự nhiên phức tạp, nhà Trạm dịch vụ Tư Chính B (DKI/5) xuống cấp không đảm bảo an toàn, toàn bộ khung nhà giàn DKI/5 rút vào bờ và tháng 12 năm 1999 Trạm dịch vụ Tư Chính B bị sóng đánh đổ xuống biển. Sau nhà Trạm DKI/5 là Trạm dịch vụ Tư Chính E (DKI/14) cũng bị sóng đánh làm nhà bị nghiêng. Tháng 12 năm 1999, bộ đội khung nhà giàn (DKI/14) rút vào bờ và các đơn vị kỹ thuật của Nhà nước khẩn trương tu sửa, gia cố nhà Trạm Tư Chính E. Sau khi hoàn thành gia cố, năm 2001 bộ đội khung nhà giàn (DKI/14) tiếp tục trở lại chốt giữ, bảo vệ Trạm dịch vụ Tư Chính E.

Đặc điểm nổi bật của khu vực Tư Chính là nằm cạnh đường hàng hải quốc tế là khu vực biển hoạt động nhạy cảm và hết sức phức tạp, “nước ngoài” thường xuyên sử dụng tàu nghiên cứu, tàu cải dạng, tàu chiến vào thăm dò địa chấn, trinh sát, quấy rối, vi phạm chủ quyền của ta. Ngoài ra, có nhiều tàu cá Trung Quốc, Hồng Công, Philippines, xuống đánh bắt trái phép hải sản khu vực này. Hoạt động của tàu nước ngoài tập trung nhiều vào các tháng 3, 4, 5 và tháng 9 tháng 10, thời kỳ sóng yên, biển lặng. Bởi vậy, công tác sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu của cán bộ, chiến sĩ các nhà trạm Tư Chính luôn căng thẳng, đặt ra yêu cầu rất cao.

2. Phúc Nguyên

Bãi Phúc Nguyên nằm ở trong khoảng vĩ độ từ 07048’10’’N – 07055’00’’N và kinh độ 109055’55’’E – 100000’00’’E; cách Vũng Tàu khoảng 225 hải lý về phía Đông Nam. Tiếp giáp với bãi ngầm Phúc Nguyên về phía Tây Nam là bãi ngầm Tư Chính; phía Đông là bãi ngầm Quế Đường; phía Đông Bắc là bãi ngầm Phúc Tần và phía Đông Đông Bắc là bãi ngầm Huyền Trân.

Bãi ngầm Phúc Nguyên, theo truyền thuyết kể lại là Nguyễn Phúc Nguyên, con thứ sáu của đức Triệu Tổ Nguyễn Hoàng và Hoàng hậu họ Nguyễn, ngài sinh ngày 28 tháng 7 năm Quý Hợi (16-8-1563), khi Hoàng hậu có thai chiêm bao thấy thần nhân cho tờ giấy viết đầy cả chữ “Phúc”, nhiều người đã đề nghị bà lấy chữ “Phúc” đặt tên con thì bà cho rằng nếu đặt tên con thì chỉ một người được hưởng phúc, bà bèn đặt tên con là Nguyễn Phúc Nguyên; bãi Phúc Nguyên là một bãi thoải không đều, nằm chìm dưới mực nước biển, điểm nhô cao nhất nằm cách mặt nước khoảng 18m, điểm nhô thấp nhất nằm sâu cách mặt nước tới 200m. Từ độ sâu trên 200m trở ra, độ sâu của đáy biển biến đổi nhanh và có độ dốc rất lớn. Phạm vi nằm ở độ sâu khoảng từ 16-200m, bãi ngầm Phúc Nguyên có chiều dài khoảng 30km, chiều rộng nơi rộng nhất khoảng 21km, phát triển chạy dài theo hướng Đông Bắc – Tây Nam, đặt ở vị trí độ sâu mực nước trung bình 21m. Đầu tháng 12 năm 1998, cơn bão số 8 một cơn bão mạnh tràn qua vùng biển DKI. Nằm trong khu vực trọng điểm của bão, trong tình thế hiểm nghèo, dưới sự chỉ huy của đồng chí Trạm trưởng, Đại úy Vũ Quang Chương, cùng với 8 cán bộ QNCN của nhà giàn DKI/6 Phúc Nguyên đã kiên trì bám trụ, liên tục giữ vững thông tin liên lạc và báo cáo chính xác mọi diễn biến về Sở chỉ huy; bình tĩnh, dũng cảm chống chọi với bão; dự kiến những tình huống xấu nhất có thể xảy ra và tìm mọi biện pháp nhằm giảm thấp nhất thiệt hại về người và trang bị. Giữa biển khơi mênh mông, đêm tối mịt mù, với sóng, gió, vừa mệt, vừa đói và rét, 9 cán bộ, nhân viên nhà giàn – một tập thể vẫn kiên cường, với tinh thần còn người, còn nhà trạm, kiên quyết bám trụ bảo vệ nhà giàn đến cùng. Trong một thời gian dài, liên tiếp gồng mình chống chọi với những trận cuồng phong; những cơn sóng lớn, đỉnh sóng cao 14-15m đánh mạnh trùm kín qua cả sàn công tác của nhà giàn, cùng với sức gió giật mạnh làm cho nhà giàn bị rung chấn dữ dội và nghiêng, lắc mạnh. Vào lúc 3 giờ sáng ngày 14 tháng 12 năm 1998, thời điểm mà sức mạnh và sự tàn phá của bão số 8 lên đến đỉnh điểm, cũng là lúc nhà giàn DKI/6 Phúc Nguyên bị đổ, cả 9 đồng chí của nhà giàn bị hất tung xuống biển. Ngay sau đó, lực lượng tàu trực cấp cứu của Hải quân đã khẩn trương, tích cực tổ chức tìm kiếm, cấp cứu những cán bộ, chiến sĩ bị nạn trong cơn bão; đến 3 ngày sau tàu HQ 606 đã phát hiện, cấp cứu được 6 đồng chí, còn lại 3 đồng chí là: Đại úy, trạm trưởng Vũ Quang Chương; Chuẩn úy chuyên nghiệp Rađa Lê Đức Hồng và Chuẩn úy chuyên nghiệp cơ điện Nguyễn Văn An mãi mãi ở lại với biển khơi, thi thể các anh đã hóa thân vào với sóng, gió, nước của đại dương mênh mông, nhưng tinh thần quả cảm, tấm gương anh dũng hy sinh vì sự nghiệp bảo vệ nhà giàn, bảo vệ chủ quyền, vùng biển, thềm lục địa của Tổ quốc mãi mãi in đậm trong nỗi tiếc thương, sự cảm phục và cả niềm kiêu hãnh của cán bộ, chiến sĩ Hải quân. Sau khi nhà giàn DKI/6 bị đổ, tháng 4 năm 1995, Trạm kinh tế – khoa học – dịch vụ Phúc Nguyên 2 (DKI/15) được xây dựng tại vĩ độ 07048’10’’N và kinh độ 109055’55’’E tại bãi cạn Phúc Nguyên. Công trình có chiều cao 47,45m, tổng diiện tích 310m2, tổng trọng lượng công trình 493 tấn; từ đây trên bãi cạn Phúc Nguyên, nhà giàn DKI/15 tiếp tục sứ mệnh lịch sử làm nhiệm vụ chốt giữ, bảo vệ nhà trạm và vùng biển, vùng trời được phân công.

Để cải thiện đời sống, nâng cao chất lượng bữa ăn của cán bộ nhân viên nhà giàn, ngoài chế độ, tiêu chuẩn được cung cấp theo đặc thù, nhà giàn thường xuyên chú trọng đẩy mạnh tăng gia trồng rau xanh và đánh bắt hải sản. Nhà giàn, được trên cấp các khay trồng rau, đất màu và con giống theo định lượng đầu người, theo tàu từ đất liền chở ra. Trong điều kiện không gian chật hẹp, rau xanh được trồng trong các khay gỗ, khay nhựa và đặt ở những nơi không gian tận dụng như hành lang, cầu thang, các ô cửa… của trạm; hàng ngày, nước thải trong sinh hoạt được tận dụng triệt để dùng cho tưới rau. Ở đây, rau xanh được trồng đủ các loại, song chủ yếu là rau cải, rau dền, bầu, bí… mỗi năm thu hoạch được từ 300 đến gần 600kg rau xanh các loại. Do đó, nhà giàn Phúc Nguyên không những cơ bản khắc phục được tình trạng thiếu rau xanh trong bữa ăn hàng ngày, mà còn giành một phần hỗ trợ cho cán bộ, chiến sĩ của các đơn vị tàu làm nhiệm vụ trực trong khu vực.

3. Phúc Tần

Bãi ngầm Phúc Tần nằm ở trong khoảng vĩ độ từ 08004’24’’N – 08009’44’’N và kinh độ 110028’10’’E – 110035’47’’E, cách bãi ngầm Quế Đường 22 hải lý về phía Bắc. Bãi Phúc Tần, Huyền Trân hợp với nhau thành một nhóm, điểm nhô cao nhất của Phúc Tần dưới mặt nước khoảng 5,5m, cách Vũng Tàu khoảng 243 hải lý về phía Đông Nam. Phạm vi bãi ngầm trong khoảng độ sâu 5,5m đến độ sâu 200m, có chiều dài khoảng 28km, chiều rộng nhất khoảng 26km, hướng phát triển cánh cung, đầu nhô cánh cung theo hướng Đông Bắc – Tây Nam.

Tương truyền kể lại rằng, Thái Tông Hiếu Triết Hoàng Đế húy là Nguyễn Phúc Tần, con thứ hai của đức Thần Tông Nguyễn Phúc Lan và Hoàng hậu họ Đoàn (không rõ tên). Ngài sinh ngày 19 tháng 6 năm Canh Thân (18-7-1620). Lúc làm Thế tử, ngài được phong là Thái phó Dũng Lễ Hầu. Ngài là một võ tướng có tài. Năm Giáp Thân (1644) ngài đốc suất các chiến thuyền vây đánh ba chiếc tàu của người Hà Lan tại cửa Eo làm thuyền trưởng phải tự tử, hai chiếc bỏ chạy, một chiếc bị va vào đá ngầm chìm, đức Thần Tông mừng và khen rằng: “Trước kia Tiên quân ta đã từng đánh phá giặc biển, nay con ta cũng lại như thế, ta không lo gì nữa”.

Thực hiện chủ trương xây dựng Cụm kinh tế – khoa học – dịch vụ (DK1), ngày 10 đến 15 tháng 6 năm 1989, Bộ Giao thông – Vận tải phối hợp với Bộ Tư lệnh Công binh tiến hành dựng lắp xong nhà giàn đầu tiên tại bãi ngầm Phúc Tần (tên địa danh hành chính là Trạm kinh tế khoa học – dịch vụ Phúc Tần, thuộc tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu). Nhà giàn Phúc Tần (DKI/3) có diện tích sử dụng là 144m2, cách mặt nước biển lúc triều cường là 10,5m.

Đầu tháng 12 năm 1990, cơn bão số 10 tràn qua khu vực DKI với gió mạnh cấp 10, cấp 11. Đêm ngày 4 tháng 12 năm 1990, nhà giàn Phúc Tần bị sóng dâng cao 14-15m đánh nghiêng 150, phá vỡ các sàn ghi tầng dưới và đến hơn 2 giờ ngày 5 tháng 12, toàn bộ khối nhà bị đổ xuống biển. Lúc này Trạm trưởng nhà giàn là Trung úy Bùi Xuân Bổng; Trạm phó Chính trị là Trung úy Nguyễn Hữu Quảng đã bình tĩnh chỉ huy bộ đội sử dụng các phao, xuồng cứu sinh rời nhà và thường xuyên điện báo về Sở chỉ huy, đến phút cuối cùng mới rời vị trí. Sau khi nhận được điện báo nhà giàn Phúc Tần bị đổ, Quân chủng Hải quân đã lệnh cho các tàu trực trên khu vực HQ711, HQ713, HQ965 khẩn trương đến cấp cứu bộ đội. Cuộc tìm kiếm từ 6 giờ 30 phút đến 19 giờ ngày 5 tháng 12 tàu HQ711 đã phát hiện cấp cứu được 5 cán bộ, chiến sĩ trong đó có đồng chí Trạm trưởng. Các ngày tiếp theo Quân chủng tiếp tục đưa tàu HQ07, HQ11, HQ682 đi tìm kiếm 3 đồng chí còn lại. Do sóng to, gió lớn việc cứu nạn rất khó khăn, các tàu đã không tìm thấy các đồng đội của mình bị sóng đánh trôi dạt. 3 cán bộ, chiến sĩ của nhà giàn Phúc Tần, Trung úy Nguyễn Hữu Quảng, Trạm phó Chính trị người con của thủ đô Hà Nội; Trung úy chuyên nghiệp Trần Văn Là, quân y sĩ và Hạ sĩ Hồ Văn Hiền, nhân viên cơ điện, mãi mãi ở lại với biển cả, các anh đã anh dũng hy sinh vì sự nghiệp bảo vệ thềm lục địa phía Đông Nam của Tổ quốc.

Tháng 8 năm 1993, Nhà nước tiếp tục xây dựng Trạm kinh tế – khoa học – dịch vụ Phúc Tần A (DKI/2) cách trạm cũ 3,5 hải lý; tháng 8 năm 1996 dựng lắp xong Trạm kinh tế – khoa học – dịch vụ Phúc Tần B (DKI/16) và DKI/17); tháng 4 năm 1997 dựng lắp xong trạm Phúc Tần Đ (DKI/18). Như vậy liên tục từ năm 1993 đến năm 1997, Nhà nước ta xây dựng 4 trạm trên bãi ngầm Phúc Tần, trị giá gần 60 tỉ đồng. Đây là các nhà trạm, được thiết kế, chế tạo nội thất đáp ứng ngày càng hiệu quả hơn cho các hoạt động của trạm cùng với việc tăng cường các trang bị kỹ thuật đảm bảo cho các nhu cầu sinh hoạt, công tác của bộ đội cũng như các hoạt động bảo đảm hàng hải. Kế cấu của nhà vững chắc, có thể chống chọi, chịu đựng sóng trên cấp 12.

Đặc điểm nổi bật của khu vực biển Phúc Tần nói riêng là khu vực biển hoạt động nhạy cảm và hết sức phức tạp, nước ngoài thường xuyên sử dụng tàu nghiên cứu, tàu cải dạng, tàu chiến, tàu cá vào thăm dò địa chấn, trinh sát, quấy rối, vi phạm chủ quyền của ta. Ngoài ra, có nhiều tàu cá Hồng Công, Philippines, xuống đánh bắt trái phép hải sản khu vực này. Hoạt động của tàu nước ngoài tập trung nhiều vào các tháng 3, 4, 5 và tháng 9 tháng 10, thời kỳ sóng yên, biển lặng. Bởi vậy công tác sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu của cán bộ, chiến sĩ các nhà trạm Phúc Tần luôn căng thẳng, đặt ra yêu cầu rất cao.

4. Huyền Trân

Bãi Huyền Trân hợp với Phúc Tần thành một nhóm. Bãi Huyền Trân nằm về phía Nam Phúc Tần nằm ở vĩ độ 08001’30’’N và kinh độ 110037’10’’E, điểm nhô cao nhất của Huyền Trân dưới mặt nước khoảng 5,5m, cách Vũng Tàu khoảng 253,5 hải lý về phía Đông Nam. Phạm vi bãi ngầm trong khoảng độ sâu 5,5-200m, có chiều dài khoảng 28km, chiều rộng nhất khoảng 26km, hướng phát triển cánh cung, đầu nhô cánh cung theo hướng Đông Bắc – Tây Nam.

Truyền thuyết kể lại, Huyền Trân, bà sinh vào năm 1287, một công chúa đời nhà Trần, là con gái của vua Trần Nhân Tông và là em gái vua Trần Anh Tông. Năm 1306, Huyền Trân được gả cho vua Chiêm Thành (Champa) là Chế Mân (tiếng Phạn: Jaya Sinhavarman III) để đổi lấy hai châu Ô, Lý (từ đèo Hải Vân, Thừa Thiên đến phía Bắc Quảng Trị ngày nay). Vào năm 1293, vua Trần Nhân Tông thoái vị, Hoàng thái tử Trần Thuyên lên nối ngôi (tức là Hoàng đế Trần Anh Tông). Vua Trần Nhân Tông trở thành Thái thượng hoàng, lên tu ở núi Yên Tử. Năm 1301, Thái thượng hoàng Trần Nhân Tông nhận lời mời, du ngoạn vào Chiêm Thành, được vua Chiêm Thành là Chế Mân tiếp đãi nồng hậu, có ở lại trong cung điện Chiêm Thành gần 9 tháng. Khi ra về, Trần Nhân Tông có hứa gả con gái là Huyền Trân cho Chế Mân, mặc dù khi đó Chế Mân đã có chính thất là Hoàng hậu Tapasi, người Java (Nam Dương ngày nay). Sau đó nhiều lần Chế Mân sai sứ sang hỏi về việc hôn lễ, nhưng triều thần nhà Trần phản đối, chỉ có Văn Túc Vương Đạo Tái và Nhập nội hành khiển Trần Khắc Chung chủ trương tán thành.

Thực hiện chủ trương xây dựng Cụm kinh tế – khoa học – dịch vụ (DK1), tháng 6 năm 1989, Nhà nước đã tiến hành dựng lắp 3 trạm tại bãi ngầm Tư Chính, Phúc Tần, Ba Kè. Đây là những vị trí quan trọng trên khu vực DKI. Năm 1990, ta dựng lắp thêm 1 trạm ở bãi ngầm Tư Chính và 1 trạm mới tại bãi ngầm Phúc Nguyên, đồng thời khẩn trương sửa chữa gia cố 3 trạm xây dựng năm 1989. Cuối năm 1991, Nhà nước tiếp tục triển khai dựng lắp 2 trạm dịch vụ mới tại 2 bãi ngầm Quế Đường, Huyền Trân để đẩy nhanh việc tổ chức khai thác hải sản và quản lý nguồn lợi biển trên khu vực DKI cũng như triển khai việc nghiên cứu theo dõi và thông báo khí tượng, hải văn cho quốc tế cùng với tăng cường các trang bị kỹ thuật bảo đảm hàng hải. Trạm kinh tế – khoa học – dịch vụ Huyền Trân (DKI/7) do Bộ Giao thông – Vận tải phối hợp với Bộ Tư lệnh Công binh dựng lắp và hoàn thành vào ngày 11 tháng 11 năm 1991. Nhà trạm Huyền Trân đặt ở vị trí có độ sâu từ mặt san hô lên đến mặt nước biển khoảng 12m; độ cao từ mặt nước biển lên tới sân thượng khoảng 15m. Đây là nhà trạm được thiết kế, chế tạo nội thất đáp ứng ngày càng hiệu quả hơn cho các hoạt động của trạm và các nhu cầu sinh hoạt, công tác của bộ đội cùng với việc tăng cường các trang bị kỹ thuật đảm bảo. Kết cấu của nhà có độ bền vững cao có thể chống chọi, chịu đựng sóng trên cấp 12. Ngay sau khi hoàn thành ngày 11 tháng 11 năm 1991, Khung nhà giàn Huyền Trân (DKI/7) đã trực tiếp ra tiếp nhận nhà trạm và nhanh chóng tiến hành các nhiệm vụ chốt giữ bảo vệ trạm, bảo vệ chủ quyền vùng biển khu vực bãi ngầm Huyền Trân.

5. Quế Đường

Bãi ngầm Quế Đường là một bãi ngầm thuộc thềm lục địa phía Nam của Tổ quốc; nằm ở trong khoảng vĩ độ từ 07047’08’’N – 07048’37’’N và kinh độ 110027’11’’E – 110029’29’’E. Từ bãi Quế Đường đến Vũng Tàu khoảng 254 hải lý, đến đảo Tri Tôn quần đảo Hoàng Sa khoảng 481 hải lý, đến đảo Trường Sa khoảng 99 hải lý, đến bờ biển Malaysia khoảng 286 hải lý, đến đảo Natunapắc của Indonesia khoảng 233 hải lý, đến khu vực ranh giới ven biển Thái Lan và Malaysia khoảng 509 hải lý, đến bãi Phúc Nguyên khoảng 32 hải lý, đến Tư Chính khoảng 55 hải lý, đến bãi Phúc Tần khoảng 22 hải lý, đến Ba Kè khoảng 74 hải lý. Điểm nhô cao nhất của Quế Đường cách mặt nước khoảng 11m. Phạm vi bãi ngầm trong khoảng độ sâu 11m đến độ sâu 200m, có chiều dài khoảng 13km, chiều rộng nơi rộng nhất khoảng 7,5km, hướng phát triển chạy dài theo hướng Đông Bắc – Tây Nam.

Quế Đường là lấy theo tên phong truyền của Lê Quý Đôn, Lê Quý Đôn là con trai cả của ông Lê Trọng Thứ. Thân sinh của Lê Quý Đôn đậu tiến sĩ năm Bảo Thái thứ 2 (1721) và làm quan đến chức Hình Bộ Thượng Thư, được phong tước hầu. Thuở nhỏ, ông có tên là Danh Phương, đến năm 1743 sau khi đỗ giải nguyên trường Sơn Nam thì đổi thành Quý Đôn; tự Doãn Hậu, hiệu Quế Đường. Còn theo tên khoa học “Quế đường” là một loại giống mía mới.

Khí tượng, thủy văn ở bãi Quế Đường cũng rất phức tạp. Về mùa mưa từ cuối tháng 6 năm trước đến đầu tháng 2 năm sau hầu như ngày nào cũng có dông. Gió Tây Nam là chủ yếu, mạnh cấp 4 đến cấp 6 có lúc lên tới cấp 7, đặc biệt là vào những tháng 11, 12 và đầu tháng 1 năm sau, bãi ngầm chịu sóng cồn do đó làm tăng từ 1 đến 2 cấp sóng. Trong năm có 2 mùa sóng rõ rệt, phù hợp với hai mùa gió, thể hiện sự tương phản của hai hướng sóng đối lập nhau. Mùa đông, hướng sóng chiếm ưu thế là hướng Đông Bắc, sau đó lên Bắc hoặc Đông. Độ cao sóng trung bình từ khoảng 2m ÷ 2,5m, cực đại có thể lên đến 8m. Mùa hè, hướng sóng ưu thế là Tây Nam, sau đó đến Tây hoặc Nam, độ cao trung bình của sóng khoảng 1,5-1,7m, cực đại có thể đến 6m (không kể sóng trong bão). Trong các tháng chuyển tiếp (tháng 4 hoặc tháng 10), hướng sóng thay đổi theo hướng gió, không ổn định. Độ cao sóng trung bình tương đối nhỏ, khoảng 0,5m. Chế độ thủy triều ở bãi đá ngầm Quế Đường tuân theo chế độ nhật triều không đều, hàng ngày có 1 lần nước lên xuống; vào kỳ nước kém, trong ngày thường có 2 lần triều lên xuống. Vào kỳ nước cường, biên độ thủy triều lớn nhất trung bình khoảng 1,2-2m. Dòng chảy ở bãi đá ngầm Quế Đường là dòng chảy xoáy, đầu hè dòng chảy có hướng thịnh hành là Đông Bắc. Cuối mùa hè dòng chảy thịnh hành hướng Đông, vận tốc trung bình 0,2-0,4 hải lý/giờ. Thời kỳ chuyển mùa đông sang mùa hè dòng chảy thịnh hành là hướng Bắc, vận tốc trung bình 0,3-0,4 hải lý/giờ.

Nhà giàn Quế Đường là một trong 6 trạm nghiên cứu thuộc cụm kinh tế – khoa học và dịch vụ trên thềm lục địa phía Nam. Theo sự phân chia địa quân sự thì Quế Đường là lô 5 trong 6 lô của khu vực dầu khí I (gọi tắt là DKI) và nằm ở trung tâm của khu vực DKI.

6. Ba Kè

Bãi ngầm Ba Kè nằm ở trong khoảng vĩ độ từ 07032’34’’N – 07053’37’’N và kinh độ 111032’34’’E – 111045’42’’E, gồm các Bãi Vũng Mây, Bãi Ba Kè, Bãi Đất, Bãi Đinh, các vị trí bãi ngầm này nằm trên cùng một khu vực bãi ngầm có độ sâu dưới mặt nước trong khoảng từ 3,2-100m; bãi ngầm nằm theo hướng Bắc Đông Bắc – Tây Tây Nam, vị trí cách bãi Quế Đường 74 hải lý về phía Đông. Chiều dài bãi ngầm khoảng chừng 50km; chiều rộng nơi rộng nhất khoảng 24km. Điểm bãi ngầm Ba Kè có độ sâu 3,2 dưới mặt nước, vị trí cách Vũng Tàu khoảng 579km về phía Đông Nam.

Ba Kè (địa danh căn cứ cách mạng). Tên địa danh Ba Kè thuộc thị trấn Cái Ngang, huyện Tam Bình, Vĩnh Long “Từ cuối năm 1946 đến cuối tháng 9-1949, các lực lượng vũ trang đánh địch hàng chục trận trên các tuyến lộ giao thông và đồn bót, giải phóng hoàn toàn huyện Tam Bình, thị trấn Cái Ngang, Ba Kè,… Đầu năm 1949, lần đầu tiên lực lượng vũ trang Vĩnh Long dùng súng bộ binh bắn tan xác một chiếc máy bay của địch tại quận lỵ Tam Bình”. Vai trò của Cái Ngang hiện rõ. Cái Ngang đã trở thành một điểm chiến lược quan trọng, mặc dù có vẻ trống trải. Các đơn vị lẻ tẻ của địch chưa dám dòm ngó đến từ nhiều năm liền.

Đặc điểm nổi bật của khu vực Ba Kè là khu vực biển hoạt động nhạy cảm và hết sức phức tạp, nước ngoài thường xuyên sử dựng tàu nghiên cứu, tàu cải dạng, tàu chiến vào thăm dò địa chấn, trinh sát, quấy rối, vi phạm chủ quyền của ta. Ngoài ra, có nhiều tàu cá Hồng Công, Philippines… xuống đánh bắt trái phép hải sản khu vực này. Hoạt động của tàu nước ngoài tập trung nhiều vào các tháng 3, 4, 5 và tháng 9 tháng 10, thời kỳ sóng yên, biển lặng. Bởi vậy công tác sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu của cán bộ, chiến sĩ các nhà trạm Ba Kè luôn căng thẳng, yêu cầu rất cao.

Thực hiện chủ trương xây dựng Cụm kinh tế – khoa học – dịch vụ (DK1), từ ngày 12 đến 16 tháng 6 năm 1989, Bộ Giao thông – Vận tải phối hợp với Bộ Tư lệnh Công binh tiến hành lắp dựng xong nhà giàn đầu tiên tại bãi ngầm Ba Kè (tên địa danh hành chính là Trạm kinh tế – khoa học – dịch vụ Ba Kè, thuộc tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu). Trạm Ba Kè A (DKI/4) thiết kế theo kiểu khung nhà liên kết với chân đế pông tông bơm bê tông đánh chìm, định vị bằng các cột bê tông chôn sâu xuống thềm san hô. Tháng 8 năm 1993, Nhà nước ta tiếp tục xây dựng Trạm kinh tế – khoa học – dịch vụ Ba Kè B (DKI/9) cách trạm cũ 7 hải lý. Ngày 22 tháng 8 năm 1993, 1 khung gồm 8 cán bộ, chiến sĩ nhà giàn (DKI/9) Tiểu đoàn DK1 ra tiếp nhận, chốt giữ bảo vệ Trạm kinh tế – khoa học – dịch vụ Ba Kè B tiếp tục làm nhiệm vụ là lực lượng tại chỗ bảo vệ nhà trạm và quản lý khu vực biển và vùng trời được phân công. Ngày 13 tháng 8 năm 1998, xây dựng xong Trạm kinh tế – khoa học – dịch vụ Ba Kè C (DKI/20) và 1 khung nhà giàn (DKI/20) ra tiếp nhận chốt giữ trạm Ba Kè C. Ngày 19 tháng 8 năm 1998 xây dựng xong trạm Ba Kè Đ (DKI/21) và khung nhà giàn (DKI/21) ra tiếp nhận chốt giữ trạm Ba Kè Đ. Như vậy, đến năm 1998, nhà nước ta xây dựng 4 trạm dịch vụ trên bãi ngầm Ba Kè. Kết cấu của nhà vững chắc, có thể chống chọi, chịu đựng sóng trên cấp 12.

Theo VNSEA.NET

Tâm sự của một ‘người lính hèn nhát’

Đừng để những người trẻ tuổi phải chịu đựng những điều ghê rợn của chiến tranh. Nó tàn nhẫn, phi nhân tính và đau đớn vô cùng…

Trong bài “Lối đi” tôi viết về đêm cuối của đời sinh viên. Có nghĩa là đã chuẩn bị tinh thần tốt nhất để lên đường. Nhưng khi đến quân trường nhìn những khối bộ đội hàng ngũ chỉnh tề ngay ngắn đi đều bước, hát vang vang bài quân hành giữa chang chang nắng, mồ hôi đẫm áo, mặt sạm đen hốc hác.. đã choáng. Cái tự ti mặc cảm thường ngày trốn kỹ trong gã tiểu tư sản vờ vịt dũng cảm can trường, nay lú mặt ra ko chút trơ trẽn. Thời gian quân trường qua mau. Khoảng 20% tân binh đào ngũ vì ko chịu nổi gian khổ. 80% ra trận nhưng thực tình, rất ít trong số 80% kia đủ tư cách NGƯỜI CHIẾN SỸ.

Tới làng 9, Lộc Tấn, Lộc Ninh. Làng chiến đấu chông cắm tua tủa, giao thông hào chằng chịt, du kích vừa đi đánh nhau về, áo còn thấm máu. Dân đi sơ tán gần hết, làng xóm hầu như chỉ còn bộ đội & du kích. Biên giới còn khá xa, tiếng súng chỉ văng vẳng vọng về nhưng đêm đầu tiên trên đất bazan, tôi ko sao ngủ được. Thỉnh thoảng những chiếc Đot, GMC, Gat, Zil 130.. lặc lè chở tử sĩ về ngã ba Chầm Chậm. Nghĩa trang có gần 3.000 liệt sỹ chỉ sau 4 tháng khai trương. Sáng hôm sau, khoảng 1/4 tân binh bỏ trốn (Đợt NVQS đó toàn thanh niên tình nguyện nhập ngũ, đa số là sinh viên).

Anh cán bộ quân lực e 205 ái ngại khi đọc phần trích ngang lý lịch của tôi: “Cậu về e bộ nhé? Ở dưới đơn vị nguy hiểm lắm. Tôi ko coi thường cậu nhưng phải có trách nhiệm trước gia đình cậu!” (Khi đó Ba tôi đang ở Quảng Ninh chuẩn bị đối phó giặc Tàu, anh Hai tôi đang ở chiến trường Lào) Tôi cương quyết: “Tôi nhập ngũ là để được chiến đấu chứ ko phải để ngồi bàn giấy. Anh ko giải quyết, tôi sẽ gặp cấp trên của anh”.

Đêm đầu tiên trên chốt lại thức trắng vì sợ. Ko thể lý giải được nỗi sợ hãi lạ kỳ đó. Đội hình phòng ngự rất thưa mỏng. 10 – 15m mới có 1 ụ chiến đấu. Vương trong mùi thuốc súng đắng nghét là mùi máu tanh & xác chết phân hủy. Rừng già thâm nghiêm & âm u. Tiếng sột soạt nào cũng khiến nổi da gà, lạnh toát cả sống lưng, đầu óc hoang mang lo lắng cùng cực. Mờ sáng hôm sau được nếm trận đầu. Bọn Polpot bò vào sát chiến hào, vượt qua bãi mìn dày đặc phía trước. Tôi vẫn đứng trân trân trong chiến hào suốt từ chập tối qua, súng cầm rất chắc (vì sợ quá) vậy mà khi địch ào tới tôi cứ như hóa đá. Mất hết mọi phản xạ, hoàn toàn vô hồn, điếng lặng. Mất dăm phút mới giương súng lên, bóp cò.. nhưng quên mở khóa an toàn. Thấy súng mình im re, cò súng cứng ngắc tôi lại càng thêm rối trí, suýt bật khóc. Nhìn quanh, đồng đội nhảy cả lên trên chiến hào dũng mãnh chiến đấu, họ bắn chi viện cho tôi, cho những người đã hy sinh.. mà xấu hổ tột cùng. Suốt ngày hôm đó tôi rúc sâu xuống hầm ko dám nhìn ai vì nhục nhã. Chính trị viên quấn cho điếu thuốc rê, ân cần trò chuyện: “Lần đầu tiên tớ cũng vậy, đái cả ra quần cơ đấy. Cậu khá lắm, ko nằm bẹp xuống hào (Thực ra tôi vì sợ quá nên quên cả việc nằm bẹp xuống) đã là điều rất đáng nể. Từ trận sau, tin rằng cậu sẽ cứng cỏi hơn”.

Trận sau còn tệ hại hơn. Nổ súng khí thế lắm, nhưng ko hề thấy địch, đạn bay hết lên trời. Họp trung đội anh em kiểm điểm tối tăm mặt mày. “Mỗi viên đạn AK có giá bằng 5 cân thóc. Dù bạn viện trợ nhưng đâu phải cho không? Con cháu ta phải trả nợ sau này. Bắn kiểu ấy là vô trách nhiệm với đất nước.. Hoặc: Nổ súng bừa bãi chỉ là cách tự trấn an bản thân của những kẻ bạc nhược. Quân đội đã dạy cách bắn điểm xạ ngắn, tuyệt nhiên ko được bắn khi chưa ngắm chính xác. Nổ súng như đ/c .. chỉ khiến địch coi thường quân đội chúng ta.. Hoặc: Mỗi thùng đạn đưa lên tới chốt phải đổi bằng máu của thanh niên xung phong & du kích. Người chiến sỹ phải có trách nhiệm với viên đạn trong tay mình…”

Đêm đó tôi phảng phất ý nghĩ tự sát. Đang lùng nhùng bởi những ám ảnh tiêu cực thì địch lại vào. Vỡ chốt! Tiểu đội 3 hy sinh sạch sẽ. Trung đội trưởng của tôi cụt cả 2 chân vẫn bò lên nóc hầm bắn điềm tĩnh chững chạc, miệng động viên chúng tôi: “Đừng bận tâm tới anh. Cứ bình tĩnh mà chiến đấu. Bằng mọi giá phải giữ lấy chốt. Còn 1 người thì chốt phải còn!” Hôm trước, anh là người phê bình tôi rát nhất. Hôm nay, tôi vừa bắn vừa lau nước mắt. Tôi nhận ra con người hèn hạ, ích kỷ & phù phiếm của mình, cái TÔI đáng khinh bỉ & giả dối mà tôi đeo gán lên mình bấy lâu.. Ý nghĩ đó vụt qua trong đầu nhanh như tia chớp nhưng mạnh mẽ vô ngần. Trong vô thức tôi nhảy lên khỏi hầm đứng bắn như 1 chiến binh dạn dày từng trải.

Sinh nhật tuổi 19, tôi được phong hạ sỹ. Trưa hôm đó hành quân qua 1 công xã mà bọn polpot vừa rút chạy (12/1978) thì chứng kiến cảnh kinh hoàng: Mấy chục đầu người còn ứa máu cắm trên hàng rào, phía dưới ghi bằng chữ Việt: Chào đón bộ đội Việt Nam! Mệnh lệnh: “2 trung đội đào huyệt sâu 1m. Trung đội 2 thu nhặt xác, cố gắng lắp đúng xác với đầu rồi tẩn liệm chôn cất. 30′ tất cả phải làm xong nhiệm vụ!” Như 1 cái máy, tôi nhổ khỏi cọc rào cái đầu 1 cô gái tóc cắt rất ngắn. Vừa ôm cái đầu trong tay bất giác tôi nôn thốc nôn tháo, tay chân bủn rủn, miệng lảm nhảm những gì ko ai nghe rõ.. Cứ thế đi 1 mạch vào rừng. Anh em chạy theo kéo lại. Tôi gần như hóa điên. Đã 31 năm nhưng ám ảnh đó ko buông tha. Lâu lâu lại bật dậy giữa đêm, toát mồ hôi lạnh.

Tham dự nhiều trận nhưng khi lần đầu tiên chính tay mình bắn hạ 1 thằng polpot (thằng này bắn chết 2 đồng đội của tôi rồi tử thủ sau gò mối. Tôi xin được chính tay mình trả thù) thì tôi ko dám nhìn mặt nó. Anh em bảo: “14 phát đạn ghim vào đầu & ngực nó. Mày bắn chuẩn lắm!” nhưng suốt cả tuần tôi bỏ cơm & hầu như ko ngủ được. Cái cảm giác ‘GIẾT NGƯỜI’ rất khủng khiếp, dù đó là giết giặc.

Đừng để những người trẻ tuổi phải chịu đựng những điều ghê rợn của chiến tranh. Nó tàn nhẫn, phi nhân tính & đau đớn vô cùng. Làm chai sạn tâm hồn, kết trong tim óc những cực đoan hằn học cay độc. Nhớ mãi 1 câu hát của cố nhạc sỹ Xuân Hồng: “Bởi chiến tranh đâu phải trò đùa”

Tổn thương về tinh thần, tình cảm đối với người lính sau chiến tranh mới là điều đáng nói nhất. Di chứng nó để lại cho con người rất khó để phân tích, thống kê, diễn đạt nhưng là người trong cuộc nên tôi cảm nhận khá rõ ràng, chính xác.

Nếu hô hào chiến tranh như 1 cách biểu thị lòng yêu nước thì có gì đó vừa khôi hài & nhẫn tâm. Khôi hài bởi người ta chưa biết như thế nào là chiến trận sa trường. Nhẫn tâm bởi vì chiến tranh luôn là thần hủy hoại (Sinh mạng, sự vui sống, của cải vật chất & những giá trị tinh thần cao đẹp khác).

Chiến tranh, nói như 1 nhà thơ:

“Nơi cao nhất thử lòng ta yêu đất nước”

Nhưng liệu mấy ai tự nguyện nhảy xuống bể acid để chứng minh giá trị vàng ròng của mình?

Chỉ những tên lính đánh thuê (lương lính ngụy bằng 4 cây vàng/tháng) lưu manh, vô học cùng lũ lái súng mới mong mỏi chiến tranh mà thôi.

Tất nhiên, khi đất nước lâm nguy thì cả nhà tôi sẽ hiên ngang ra trận. Nhưng đó là chuyện chẳng đặng đừng. Xin chớ cổ xúy bạo lực, xung đột. Làm người chiến sỹ khó hơn chơi game khá nhiều. Các bạn ạ.

Thân mến!

LÊ VŨ (OPERA)

Đừng yêu nước bằng máu của người khác!

Những người gác biển không cần những người “đứng” sau lưng bằng những bài viết răn dạy về tình yêu nước trên Facebook.

Bài vết của blogger Bao Anh Thai

Ông ngoại tôi từng cầm mác búp đa, lưng dắt lựu đạn, cắt rào rào kẽm gai công đồn Pháp cùng với những người lính Nhật Bản theo Việt Minh thời chín năm. Chiến thuật của đơn vị ông rất đơn giản: cắt rào, ném lựu đạn vô lô cốt và xung phong vào đánh giáp lá cà khi quân Pháp còn chưa hết choáng váng vì tiếng nổ. Ông tôi không kể về những tổn thất của đơn vị.

Khi tôi hỏi ông tôi là trong đơn vị có bao nhiêu lính Nhật, và sau chín năm, bao nhiêu người trong số họ trở về tổ quốc. Ông trả lời “có chín người, sau chín năm, chẳng có ai trong họ còn sống.” Tôi không biết ngoài chín người Nhật đó, bao nhiêu người khác trong đơn vị ông đã chết. Tôi hỏi ông: “đơn vị ông không phải là đặc công (mà thực ra trong thời chín năm, khái niệm đặc công chưa có), sao các ông không dùng bazooka hoặc ít nhất là súng máy áp chế khi công đồn?” Ông trả lời rất đơn giản là đơn vị ông không có bất kỳ vũ khí hỏa lực mạnh nào. Họ chỉ có 3 súng trường Nhật cho một tiểu đội và những người Nhật Bản tình nguyện chỉ dùng kiếm samurai của họ.

Thời kháng Mỹ, ông tôi động viên con cái đi ra trận. Hai dì tôi đi thanh niên xung phong khi mười sáu tuổi. Sau chiến dịch Đường 9 Nam Lào và Quảng Trị, lần lượt 2 dì về nhà vì mất sức. Cả hai dì đều trọc đầu như sư đến nhiều năm sau tóc mới mọc lại. Bác tôi, học ở Nga về làm cán bộ giảng dạy Bách Khoa nhưng rồi lại tình nguyện nhập ngũ. Tây Nguyên, Đường 9, Quảng Trị – giấy chứng nhận dũng sỹ diệt Mỹ và dũng sỹ diệt xe cơ giới gấp phồng túi ngực (theo đúng nghĩa đen). Khi từ miền Bắc vào Nam, bác tôi mang theo 90 viên đạn của cây súng bắn tỉa. Khi giải ngũ, bác đã bắn 52 viên, trong đó 4 viên trượt. Bác tôi và người em kết nghĩa đã bỏ cả ngày trời bò qua cả một cái trảng lớn nằm giữa vùng ranh giới giữa hai bên để bắn một phát đạn với tầm gần 900 m làm bị thương viên tướng chỉ huy một sư đoàn quân đội Sài Gòn trong cuộc họp bộ tham mưu của sư này hồi Quảng Trị năm 1972. Bác tôi là một trong 16 người cuối cùng rời thành Quảng Trị bơi vượt sông Thạch Hãn và tên của bác tôi có trong viện Bảo tàng Quân đội. Những người chỉ huy trận Quảng Trị nay đang lãnh đạo Bộ Quốc phòng đều nhớ đến bác tôi.

Ông ngoại tôi giờ đã 94 tuổi, bác và các dì tôi đều đã về hưu. Không một ai đại ngôn về lòng yêu nước. Thậm chí, tôi chưa bao giờ nghe từ đó trong các câu chuyện của họ. Đơn giản là họ làm những điều đó.

Khi tôi kể cho bác tôi về một cuốn nhật ký nổi tiếng của một người lính trẻ tuổi hai mươi và ngỏ ý muốn mua một cuốn tặng bác. Bác tôi từ chối và nói với tôi rằng: “con ạ, nếu mỗi người lính khi ra trận, thay vì viết mà chỉ cần bắn bị thương một kẻ thù thôi, thì miền Nam có thể giải phóng rất lâu trước 1975”. Khi tôi kể cho bác về những chuyện gần đây trên Biển Đông, bác lẩm nhẩm tính rồi nói “Ác liệt như hồi 72 mà người ta mới vét đến cán bộ tuổi 35. Giờ, nếu không phải đánh lớn trên bộ, chắc bọn con (tôi và các anh con bác) không bị động viên đâu!”

Tôi viết những dòng này vì tôi ngán đến tận cổ những người ngồi trong phòng máy lạnh mà mọi thứ họ viết ra chỉ là chỉ trích. Tôi ngán đến tận cổ việc họ tự cho mình là đang nói lên tiếng nói của nhân dân để viết về lòng yêu nước. Họ chỉ trích, họ mách nước cho Nhà nước làm việc A việc B dù họ biết rằng nếu có nổ súng thì họ sẽ không gửi email gọi con họ bỏ học ở nước ngoài để về nhập ngũ. Nghĩ đi nghĩ lại, tôi tự hỏi và mãi vẫn không tìm được chỗ nào cho thấy họ đang đại diện cho nhân dân (những người nông dân như ông ngoại tôi, những cán bộ về hưu như bác và các dì tôi) để nói những từ đại ngôn đó.

Những người đại ngôn đó đòi minh bạch về thông tin, đòi nhà nước để cho phải báo cáo này nọ nhưng họ quên mất một điều là từ năm 79 tới những năm 85-86, có ngày nào mà nhân dân không nghe đài thống kê về số lượng đạn pháo bắn sang lãnh thộ Việt Nam, ngày nào mà Thông Tấn Xã VN không dịch những bản tin đó sang tiếng Anh cho thế giới biết? Cả thế giới đều biết, nhưng chỉ có những thanh niên Việt Nam 17-18 phải bỏ trường học mà lên đường giữ nước, và cả nước phải đói ăn đến queo quắt để chiến sỹ tiền duyên có đạn mà bắn.

Năm 88, chiến sỹ hải quân hy sinh trên đá ngầm đảo Trường Sa vì tinh thần yêu nước và hy sinh họ có thừa nhưng họ không có vũ khí để chống lại tàu lớn của Trung Quốc.

Những người gác biển không cần nhân dân “đứng” sau lưng bằng viết bài răn dạy nhân dân và nhà nước về tình yêu nước trên Facebook. Những người gác biển cần vũ khí, cần máy bay, cần tên lửa, cần tàu chiến, tàu ngầm. Và những thứ đó chỉ có được khi có tiền. Nếu có viết, hãy kêu gọi nhà nước phát hành công trái mua vũ khí, và nếu có phát hành, thì hãy mua công trái. Đừng để con em nhân dân đổ máu để cho các vị thấy mình là yêu nước.

Nhân đây, để cho những người nào thích những thứ dân chủ và yêu nước lấp lánh phương Tây, tôi xin tặng các bạn một đoạn trong script của bộ phim “Gone with the wind” về lòng dũng cảm, yêu nước và suy nghĩ thực tế.

Chapter 2 Scarlett Meeting Butler

(Noon time, the gentlemen are gathering in the downstairs hall, talking about the war.)

Mr. O’HARA:We’ve borne enough insults from the “meddling Yankees. It’s time we made them understand we keep our slaves with or without their approval. Who’s to stop them right from the state of Georgia to secede from the Union.

MAN:That’s right.

Mr. O’HARA:The South must assert ourselves by force of arms. After we fired on the Yankee rascals at Fort Sumter, we’ve got to fight. There’s no other way.

MAN1:Fight, that’s right, fight!

MAN2:Let the Yankee’s be the ones to ask for peace.

Mr. O’HARA:The situation is very simple. The Yankees can’t fight and we can.

CHORUS:You’re right!

MANS:That’s what I’ll think! They’ll just turn and run every time.

MAN1:One Southerner can lick twenty Yankees.

MAN2:We’ll finish them in one battle. Gentlemen can always fight better than rattle.

MANS:Yes, gentlemen always fight better than rattle.

Mr. O’HARA:And what does the captain of our troop say?

ASHLEY:Well, gentlemen…if Georgia fights, I go with her. But like my father I hope that the Yankees let us leave the Union in peace.

MAN1:But Ashley…

MAN2Ashley, they’ve insulted us.

MANS:You can’t mean that you don’t want war.

ASHLEY:Most of the miseries of the world were caused by wars. And when the wars were over, no one ever knew what they were about.

Mr. O’HARA:Now gentlemen, Mr. Butler has been up North I hear. Don’t you agree with us, Mr. Butler?

RHETT BUTLER: I think it’s hard winning a war with words, gentlemen.

CHARLES:What do you mean, sir?

RHETT:I mean, Mr. Hamilton, there’s not a cannon factory in the whole South.

MAN:What difference does that make, sir, to a gentleman?

RHETT:I’m afraid it’s going to make a great deal of difference to a great many gentlemen, sir.

CHARLES:Are you hinting, Mr. Butler, that the Yankees can lick us?

RHETT:No, I’m not hinting. I’m saying very plainly that the Yankees are better equipped than we. They’ve got factories, shipyards, coal-mines… and a fleet to bottle up our harbors and starve us to death. All we’ve got is cotton, and slaves and …arrogance.

MAN:That’s treacherous!

CHARLES:I refuse to listen to any renegade talk!

RHETT:Well, I’m sorry if the truth offends you.

BẢO ANH THÁI