Chiến thuật hải quân của Việt Nam trên Biển Đông

Với lối đánh sở trường của Việt Nam thì những gì công nghệ không làm được, chiến thuật làm được, và những gì mà công nghệ làm được, thì chiến thuật không cần…

Chiến thuật hải quân – một thành phần cấu thành của nghệ thuật, bao gồm lý thuyết và thực tế huấn luyện tác chiến và thực hiện các hoạt động tác chiến trên biển của các đơn vị binh chủng hợp thành, các binh chủng, các phân đội của các binh chủng thuộc quân chủng hải quân. Chiến thuật hải quân được hình thành từ thời cổ đại, khi các chiến hạm còn sử dụng mái chèo và buồm, các trận chiến đấu thông thường diễn ra trong điều kiện thời tiết tương đối tốt, các đòn tấn công chủ yếu là giáp trận, đâm tàu, đổ bộ giáp chiến chiếm thuyền.

Sự phát triển của vũ khí nòng trơn (súng thần công) đã thay đổi hình thái chiến thuật hải quân, súng thần công trở thành vũ khí chủ lực trên chiến hạm, các trận đánh trên biển diễn ra với các tàu thuyền được trang bị pháo hạm, cơ động trên tuyền cơ động chiến đấu, tấn công và giáp chiến bằng hỏa lực pháo binh. Việc xuất hiện các pháo hạm có cỡ nòng lớn hơn ( 338 mm) đồng thời với kỹ thuật lái tàu đã xuất hiện chiến thuật tấn công cơ động hàng dọc, đột phá tuyền chiến đấu của đối phương và cận chiến bằng pháo hạm với các cuộc đổ bộ giáp chiến bằng thủy binh giữa thế kỷ 18.

Sự xuất hiện máy hơi nước đã làm thay đổi các chiến hạm, đến giữa thế kỷ 19. Lực lượng tác chiến chủ lực của hạm đội là các chiến hạm động cơ hơi nước và có bọc giáp chống đạn (Thiết giáp hạm) Chiến thuật hạm đội có thay đổi, có 3 bước tiến hành một trận chiến trên biển, trinh sát hạm đội đối phương bằng các tàu khu trục hạng nhẹ, triển khai đội hình chiến đấu các thiết giáp hạm và các tuần dương hạm bọc thép; tác chiến tấn công hay phòng ngự bằng hỏa lực của pháo hạm; phát triển tiến công tiêu diệt hạm đội đối phương bằng các khu trục hạm hạng nhẹ hoặc khu trục hạm hạng nhẹ thực hiện các đòn đánh chặn bảo vệ cho các thiết giáp hạm chủ lực rút lui trong trường hợp trận chiến không phát triển thuận lợi.

Các chiến thuật bao gồm có tiến công bằng hỏa lực mạnh, đột phá đội hình chiến hạm đối phương bằng hỏa lực tập trung, tấn công cạnh sườn, chia cắt và bao vây tiêu diệt. Để xuyên phá đội hình, tấn công kỳ hạm của liên đoàn chiến hạm đối phương, thông thường sử dụng một liên đội các tàu khu trục bọc giáp tốc độ cao. Song song cùng với chiến thuật pháo hạm, cũng xây dựng chiến thuật các khu trục hạm, các chiến thuật xây dựng tuyến phòng thủ thủy lôi và vật cản.

Sự phát triển của chiến thuật hải quân đặc biệt phát triển trong đại chiến thế giới lần thứ I, do có sự thay đổi sâu sắc trong tính chất của các trận đánh trên biển, do sự phát triển của khoa học công nghệ đã đưa vào biên chế hải quân những loại vũ khí trang bị mới, đó là ngư lôi, máy bay và tàu ngầm, số lượng các chiến hạm tăng vọt và từ đó, xuất hiện những khái niệm mới về chiến lược và chiến dịch hải quân.

Trong khói lửa của nội chiến chống bạch vệ và các lực lượng can thiệp nước ngoài đã hình thành chiến thuật Hải quân Xô Viết, đồng thời do đặc thù của chiến tranh, chiến thuật hải quân bao trùm thêm nghệ thuật tác chiến của các hạm đội hải quân đường sông và các biển hồ, nghệ thuật tác chiến trên sông lớn như sông Vonga, Amur, Dnhepr .. phối hợp với chiến thuật của lục quân. Hải quân tham gia các hoạt động chiến đấu như đổ bộ đường sông và đường biển, tác chiến vùng nước ven bờ và bảo vệ các căn cứ bờ biển, hải cảng quân, dân sự. Đến những năm 1920x – 1930x đã hoàn thành những lý luận và thực tiễn cơ bản cho nghệ thuật tác chiến của Hải quân Xô Viết.

Chiến tranh thế giới lần thứ II làm thay đổi hầu hết những lý luận cơ bản, quan niệm và khái niệm không gian chiến trường, đặc biệt, khái niệm tác chiến chiến thuật được chia ra thành 2 tư duy rõ rệt, tư duy phát triển chiến thuật theo hướng tác chiến Không – Hải của các nước phương Tây và tư duy tác chiến theo hướng Bộ- Không- Hải của các nước đang phát triển phù hợp với hệ tư tưởng phòng thủ đất nước. Trong các nước có nền công nghiệp hùng mạnh và có tư duy kinh tế hải dương như Nhật Bản hay Mỹ, vai trò quan trọng trong tác chiến hải dương là lực lượng không quân hải quân có trên tàu sân bay.

Hải quân các đế quốc biển đã phát triển hệ thống chiến thuật không hải, trong đó không quân hải quân đóng vai trò đòn tấn công chủ lực. Không quân Hải quân triển khai các trận đánh hải chiến, khi lực lượng chiến hạm của các hạm đội còn cách xa nhau hàng trăm hải lý, đồng thời lực lượng tàu ngầm luồn sâu đánh vào các chiến hạm quan trọng, hoặc cắt đường vận tải, phá đối hình chiến đấu của đối phương. Các lực lượng khu trục hạm hoặc tàu tuần biển phóng ngư lôi hạng nhẹ, tốc độ cao, dưới sự yểm trợ của không quân đánh phá đội hình địch.

Sự có mặt của các tàu tuần dương, tuần dương bọc thép, thông thường đi kèm với tiêu diệt lực lượng hải quân còn lại của đối phương, hoặc đánh phá các căn cứ ven bờ, yểm trợ hỏa lực đổ bộ đường biển. Áp dụng không quân và tàu ngầm phóng lôi cho phép mở không gian chiến trường rộng lớn, các đòn tấn công diễn ra đa chiều, từ trên không, trên biển, và dưới biển. Nội dung quan trọng bậc nhất trong chiến thuật hải chiến của đại chiến thế giới lần thứ 2, đó là tiến hành các chiến dịch tấn công bằng không quân hải quân, và những cuộc chiến đấu ngầm dưới nước.

Hai mặt trận đều có sự liên kết phối hợp các đơn vị trong quân chủng hải quân nhằm đạt mục tiêu tiêu diệt hải lực của đối phương.Nghệ thuật tác chiến hải quân của quân đội Xô Viết phát triển theo hướng độc lập tác chiến của các hạm đội có sự yểm trợ tích cực của không quân hải quân có căn cứ trên bộ, đồng thời tác chiến phối hợp chặt chẽ với các lực lượng bộ binh. Mục tiêu quan trọng hàng đầu của các hạm đội, là các tuyến đường vận tải biển của đối phương. Do đó, chiến thuật hải quân Xô Viết tập trung vào những trận đánh cắt đường vận tải với những đòn tấn công tập trung của không quân Hải quân, tàu ngầm và các hải đoàn tàu tốc độ cao nhằm tiêu diệt các đoàn congvoa vận tải, chở quân hoặc đổ bộ đường thủy của đối phương.

Đặc biệt, hải quân Xô Viết phát triển mạnh chiến thuật sử dụng các hải đội tàu ngầm tập trung tiến công hạm đội hoặc các đoàn vận tải quân sự của đối phương, có sự phối kết hợp chặt chẽ của các lực lượng khác như không quân chiến thuật, không quân chiến lược và máy bay tiêm kích. Trong các trận đánh của đại chiến thế giới lần thứ II, lực lượng lính thủy đánh bộ Xô Viết đã phát triển mạnh kỹ thuật đổ bộ đường biển, kết hợp với những đòn tấn công hỏa lực của pháo hạm, đánh vu hồi, tạt sườn, chiếm bàn đạp ven bờ và thọc sâu vào hậu phương đối phương, kết hợp với các binh chủng của lục quân đánh bao vây tiêu diệt địch.

Sự phát triển của chiến thuật hải quân

Đại chiến thế giới thứ II kết thúc. Các đế quốc ven biển phát triển mạnh lực lượng Hải quân theo xu hướng viễn dương, sử dụng lực lượng không quân hải quân như những đòn đánh chủ lực để tiêu diệt lực lượng phòng thủ bờ biển của đối phương, tiêu diệt hạm tàu ngay trên quân cảng bằng những đòn đánh chiến lược. Trong cuộc đua trên và dưới biển, lực lượng tàu ngầm phát triển mạnh mẽ với tầm nhiệm vụ tác chiến ngày càng cao, từ những đòn đánh tiêu diệt hạm đội đến những đòn đánh vào sâu trong nội địa đối phương.

Sự phát triển của tàu ngầm hạt nhân, vũ khí hủy diệt lớn và công nghệ điện tử – viễn thông, điều khiển học khiến nghệ thuật tác chiến tiếp tục hoàn thiện và phát triển theo xu hướng tôn trọng hỏa lực. Công nghệ phương tiện mang- tên lửa đạn đạo, tên lửa hành trình mang các đầu đạn hủy diệt lớn, đầu đạn thông thường, đầu đạn có lượng nổ mạnh có tầm bằn lên đến hàng trăm, hành nghìn hải lý. Các tàu ngầm, chiến hạm nổi trở thành các căn cứ quân sự và các điểm hỏa lực tầm xa, các đòn tấn công được phát triển từ nhiều hướng vào một mục tiêu, các tàu có thể quản lý nhiều mục tiêu trong một trận đánh.

Sơ đồ bay của tên lửa chống tàu BGM109 Tomahawk

Sơ đồ bay của tên lửa chống tàu BGM109 Tomahawk.

Phương án tác chiến được chia thành 2 không gian chiến trường, chiến trường trên biển và chiến trường dưới đáy biển. Các giai đoạn của hải chiến bao gồm có 3 giai đoạn:

Giai đoạn 1- Tấn công trên mặt biển và các căn cứ bờ biển bằng những đòn đánh tập trung của không quân, hỏa lực hải quân bao gồm tên lửa hành trình và pháo hạm tầm xa và săn ngầm và chống ngầm dưới đáy biển sâu.

Giai đoạn 2- Hỏa lực không – hải phát triển sâu vào các mục tiêu quan trọng trên đất liền, các khu trục hạm và chiến hạm cao tốc chế áp lực lượng phòng thủ vùng nước và phòng thủ bờ biển. Lực lượng tàu ngầm và các hải đội đánh ngầm phá hủy tuyến phòng thủ ngầm dưới biển ( thủy lôi, lưới chắn tàu, v.v…) tạo cửa mở cho lực lượng đổ bộ đường biển.

Giai đoạn 3- Không quân hải quân thực hiện nhiệm vụ khống chế bầu trời, quản lý các mục tiêu mặt đất, dập tắt các hỏa điểm đột ngột phát sinh, đánh chặn các tuyến vận tải và săn lùng các mục tiêu trên bộ và trên biển. Lực lượng lính thủy đánh bộ, hải quân triển khai đổ bộ đường biển, tấn công phá hủy các mục tiêu bờ biển.

Tác chiến phòng không của hải đội tàu ngầm

Tác chiến phòng không của hải đội tàu ngầm.

Sự phát triển của các loại tên lửa, bom điều khiển, bom thông minh, máy bay chiến đấu không người lái làm tăng sức mạnh của các đòn đánh chiến thuật, từ việc phát triển các tàu mang tên lửa đã phát triển các hình thái chiến thuật; chiến thuật tàu ngầm mang tên lửa, chiến thuật tàu tuần biển, tuần duyên mang tên lửa, chiến thuật của các khu trục hạm tên lửa, chiến thuật của máy bay cường kích chống tàu, trực thăng tấn công chống hạm đi kèm với những chiến thuật truyền thống như tác chiến tiến công của các tàu phóng ngư lôi tàng hình, chiến thuật tấn công tàu ngầm, chiến thuật chống ngầm, chiến thuật quét mìn và mở cửa mở, chiến thuật tấn công chế áp đường không, ven biển với các lực lượng phòng không, lực lượng phòng thủ bờ biển, chiến thuật đổ bộ không – hải kết hợp.

Sơ đồ tấn công mục tiêu bằng tên lửa hành trình

Sơ đồ tấn công mục tiêu bằng tên lửa hành trình.

Tàu ngầm nguyên tử mang tên lửa có khả năng cơ động bí mật, dài ngày tại những vùng biển nằm ngoài khả năng chống ngầm của đối phương, tấn công bất ngờ bằng tên lửa đạn đạo mang đầu đạn hủy diệt lớn, tên lửa hành trình vào các mục tiêu trên biển và trên đất liền với chiều sâu tấn công hàng nghìn km. Không quân hải quân mang tên lửa có thể tấn công từ nhiều hướng, nhiều mục tiêu cùng một lúc với các tên lửa chống hạm trên khoảng cách ngoài tầm phòng thủ của các loại vũ khí phòng không đối phương.

Các tàu tuần dương, khu trục hạm mang tên lửa có thể đánh chặn các lực lượng không quân chống tàu và tiêm kích ngay trên đường băng cất cánh của đối phương. Lực lượng tàu ngầm và lực lượng đặc nhiệm hải quân, với những trang bị hiện đại (tàu ngầm mini, robot ngư lôi) có khả năng tiếp cận tuyến phòng thủ ven biển của đối phương và phá hủy các khu vực phòng thủ biển, vô hiệu hóa các trận địa tên lửa bờ biển.

Tác chiến không đối hải

Tác chiến không đối hải.

‘Cú ra đòn’ sở trường Việt Nam

Phương thức chiến thuật “thống trị bầu trời” kết hợp với vũ khí trang bị hiện đại là đang trở thành mối nguy hiểm của các nước ven biển đang phát triển và có nền công nghiệp quốc phòng hạn chế. Các cuộc chiến tranh vùng Vịnh đã minh chứng cho khả năng tác chiến của các cường quốc biển và sự nguy hiểm của công nghệ chiến tranh hiện đại. Nhưng nếu “những gì công nghệ không làm được, thì chiến thuật làm được; những gì mà công nghệ làm được, thì chiến thuật không cần”. Trong mọi điều kiện chiến trường, công nghệ luôn song hành cùng chiến thuật để hoàn thành nhiệm vụ.

Sơ đồ hoạt động tàu khu trục Maddox ở Việt Nam<br />

Sơ đồ hoạt động tàu khu trục Maddox ở Việt Nam

Trong cuộc chiến tranh Việt Nam, với một đất nước không có nền công nghiệp quốc phòng, lực lượng hải quân còn rất mỏng, Quân đội Mỹ đã điều động một lực lượng hải quân hùng mạnh, bao gồm cả tàu sân bay, tuần dương, khu trục, phong tỏa toàn bộ khu vực bờ biển Việt Nam và không phận Việt Nam, hỏa lực pháo binh của Hải quân Mỹ tấn công toàn bộ khu vực bờ biển, hỏa lực không quân có mặt 24/24 khống chế bầu trời Việt Nam.

Nhưng Hải quân Mỹ cũng phải chịu những đòn đánh của một lực lượng hải quân nhỏ bé và cũng phải chịu những tổn thất bất ngờ. Thực hiện ý đồ tấn công Miền Bắc để giải tỏa áp lực Ngoài khơi vịnh Bắc bộ, tàu khu trục Maddox tiếp tục tiến về phía bắc, xâm phạm hải phận của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và gây ra một số vụ khiêu khích đối với thuyền đánh cá của ngư dân miền Bắc.

Đặc biệt đêm 31-7 rạng sáng 1-8-1964, tàu khu trục Maddox đã xâm phạm vùng biển Quảng Bình, sau đó tiến lên phía bắc, điều tra các mạng lưới phòng thủ của Việt Nam ở khu vực đèo Ngang, Hòn Mát, Hòn Mê, Lạch Trường. Phân đội 3 gồm ba xuồng phóng lôi 333, 336, 339 nhận nhiệm vụ đánh chặn. Ngày 2-8, 3 xuồng phóng lôi của Hải quân Việt Nam tiếp cận và tấn công. Tàu khu trục Maddox sử dụng hỏa lực mạnh đánh chặn, tàu 333 nghi binh cho xuồng 336 và 339 tấn công. Mỹ sử dụng 5 máy bay hải quân tham chiến, hỏa lực của tàu khu trục làm 2 xuồng 336 và 339 bị tổn thương. Xuồng phóng lôi 333 quay trở lại, dù bị trúng đạn pháo nhưng vẫn tận dụng tốc độ cao và áp sát khu trục hạm Maddox, bị trúng 1 quả ngư lôi của xuống 333. tàu Maddox rút khỏi vịnh Bắc bộ.

Sơ đồ hải chiến với tàu Maddox

Sơ đồ hải chiến với tàu Maddox.

Trận hải chiến thứ 2 diễn ra ven bờ biển Đồng Hới, ngày 19/4/1972 giữa không quân và hải quân Việt Nam và hạm đội 7 Mỹ.

Lực lượng tham chiến phía Hải quân nhân dân Việt Nam gồm: 3 tàu phóng lôi; 2 Mig-17F Fresco-C . Về phía Hạm đội 7 có sự tham gia của: 1 Tuần dương hạm (tuần dương tên lửa USS Oklahoma City-CLG5); 2 khu trục hạm (khu trục USS Lloyd Thomas, USS Higbee);1 hộ tống hạm(hộ tống hạm tên lửa USS Sterett-DGL-31).

Sơ đồ hải chiến đánh liên đội tàu hạm đội 7 Mỹ

Sơ đồ hải chiến đánh liên đội tàu hạm đội 7 Mỹ.

Hai phi công Việt nam là Lê Xuân Dị và Nguyễn Văn Bảy, được sự yểm trợ của các xuống phóng lôi nghi binh, xuất kích từ sân bay dã chiến, đã sử dụng phương thức tấn công bay thấp tránh hệ thống radar cảnh báo, hệ thống tên lửa và pháo phòng không của các chiến hạm được trang bị vô cùng hiện đại. Máy bay MIG 17 của không quân Việt Nam bay cách mặt nước biển 10 m, phóng bom. Bom đã đánh trúng boong tàu của hai chiến hạm, hai máy bay MIG 17 quay về sân bay an toàn.

MIG 17 hải chiến

MIG 17 hải chiến.

Từ hai trận của không quân, hải quân Việt Nam, rõ ràng với nghệ thuật tác chiến bất ngờ, kỹ thuật sử dụng trang bị thành thạo, cùng với phương thức tiếp cận đối phương nằm ngoài dự kiến đã làm cho một lực lượng hải quân hùng mạnh bị rơi vào tình trạng bất ngờ, lúng túng đối phó và rất dễ bị tiêu diệt hay đánh thiệt hại nặng.

Hải chiến kinh điển

Điển hình của chiến thuật sử dụng tên lửa chống tàu được thể hiện trong trận hải chiến giữa các liên đội tàu chiến mang tên lửa và ngư lôi của Israel với Syria và các nước Arập. Trước cuộc chiến tranh 6 ngày Hải quân Israel được trang bị các tàu phóng tên lửa cao tốc lớp “Reshef” trang bị tên lửa chống tàu Gabriel. Hải quân Syria và các nước Arập được biên chế các tàu phóng tên lửa Kamar và Osa sử dụng tên lửa Termite-U có tầm bắn 35 – 40 km điều khiển bằng radar. Tên lửa Gabriel có độ chính xác rất cao, nhưng tầm bắn ngắn hơn đến 2,5 lần.

Do đó, để có thể tấn công, tàu phòng tên lửa của Israel phải đi vào tầm bắn của tàu tên lửa Kamar và Osa từ 20 đến 25 km. Sau khi bị tổn thất một số tàu, Hải quânIsrael đã thay đổi chiến thuật tác chiến, họ quyết định giải quyết vấn đề bằng giải pháp gây nhiễu đầu dẫn tên lửa chống tàu bằng các đầu tạo xung gây nhiễu, đồng thời sơn phủ tàu bằng lớp vật liệu hấp thụ sóng radio, chuyển thành nhiệt lượng tỏa ra ngoài không khí.

Trận hải chiến hai ngày 6-7/10/1963. Hải quân Israel sử dụng năm tàu phóng tên lửa đi vòng qua bờ biển Lybia, vào lúc 2228 ngày 6/10/1973 đã phát hiện liên đội tàu phóng lôi Syria đỗ bên bờ biển Lattakia. Hải đội tàu Israel sử dụng pháo hạm đánh chìm 5 tàu phóng lôi Syria. Sau đó quay về hướng đông ra biển, sử dụng tên lửa tiêu diệt 1 tàu quét mìn của Syria. Lúc đó 3 tàu tên lửa của Syria đã phát hiện ra đội tàu của Israel trên khoảng cách 40 km, cả hai bên đều sử dụng tốc độ di chuyển để chiếm vị trí tấn công, ở khoảng cách 37,5km hải đội Syria sử dụng ưu thế của tên lửa đã phóng loạt đầu tiên. Hải quân Israel lập tức khởi động hệ thống gây nhiễu, tên lửa chống tàu của Syria lạc hướng và lao xuống biển, hải đội tàu phóng tên lửa của Israel dùng tốc độ cao tiếp cận tàu của Syria, bắn hạ 2 tàu phóng tên lửa của Syria, tàu thứ 3 bỏ chạy và bị mắc cạn, bị pháo hạm của Israel tiêu diệt.

Hải chiến của tàu tên lửa Israel và Syria

Hải chiến của tàu tên lửa Israel và Syria.

Chiều ngày 7/10/1973, hạm tàu Israel xuất kích đánh chặn liên đoàn tàu của Arập, gồm 4 tàu phóng tên lửa lớp Osa trang bị tên lửa Termit U. 2300 cùng ngày, liên đoàn tàu Arập phát hiện hạm tàu Israel ở khoảng cách 38km, lợi dụng ưu thế của tên lửa đã phóng 12 đầu đạn về phía tàu Israel, hạm tàu của Israel sử dụng chiến thuật cũ, bật toàn bộ hệ thống gây nhiễu và tăng tốc tiến về liên đội tàu Arập cận chiến, 12 tên lửa chống tàu Termite-U bị nhiễu loạt lạc hướng rơi xuống biển, sau 12 phút truy đuổi, hạm đội Israel bắt kịp liên đội tàu Arập và khai hỏa tên lửa Gabriel, đánh chìm 3 tàu phóng tên lửa, tàu thứ 4 bị tổn thương nặng nề và phải thả trôi về cảng.

Hải chiến của tàu tên lửa Israel và các nước Arap

Hải chiến của tàu tên lửa Israel và các nước Arap.

Trong trân chiến quần đảo Falklands thuộc vùng biển Argentina, với những máy bay cũ kỹ Skyhawk, tên lửa chống hạm Excocet, nhưng bằng chiến thuật đánh cận chiến, bay sát mặt nước biển tránh radar và tên lửa phòng không, không quân Argentina đã đánh thiệt hại nặng hạm đội hùng mạnh của Anh, đánh chìm 6 chiếc chiến hạm hiện đại. Mặc dù thất bại trong việc dành lại quần đảo Falklands, nhưng chiến thuật bay sát mặt nước biển, phóng tên lửa chống tàu vào sườn tàu, trở thành kỹ thuật tác chiến cơ bản của không quân Hải quân các nước nghèo.

Từ những lý luận và quan điểm của chiến tranh công nghệ cao, đối với các lực lượng phòng thủ, để chống lại một cuộc tập kích không – biển hiện đại, cần có sự tổ chức phòng thủ chu đáo, tỷ mỉ và tính đến mọi tình huống. Huấn luyện chiến thuật và thực hành nghệ thuật tác chiến thường xuyên, liên tục, với cường độ ngày càng cao và mức độ ngày càng tăng cường.

Phương án phòng thủ nào cho Biển Đông?

Việt Nam có bờ biển dài, nhiều đảo, vùng đặc quyền kinh tế rộng cho nên hiện nay việc xây dựng kế hoạch, phương án phòng thủ nhằm giữ vững chủ quyền trong mọi tình huống là điều hết sức quan trọng. Hệ thống phòng thủ cần quản lý không trung trên biển, quản lý mặt biển, quản lý chiều sâu dưới biển. Lực lượng hải quân (không quân, hạm đội, các lực lượng phòng thủ bờ biển huấn luyện tác chiến và sẵn sàng tác chiến trên một tuyến phòng thủ có chiều rộng, đa tầng, bao gồm các các bãi thủy lôi thông minh, các bãi vật cản cơ động, các tuyến chiến đấu của hạm đội tàu ngầm, khu vực phòng thủ hỏa lực của các hạm đội hoặc liên đoàn tàu tuần biển, tuần duyên, trực thăng đa năng, các lực lượng đặc nhiệm hải quân và các lực lượng phòng thủ bờ biển (pháo tầm xa, tên lửa đối hạm, hệ thống phòng không tên lửa và pháo phòng không).

Hệ thống tên lửa bờ biển Bastition sử dụng tên lửa YAxon

Hệ thống tên lửa bờ biển Bastion sử dụng tên lửa Yakhon.

Trong chiến tranh hiện đại, việc sử dụng các radar tầm xa, các sonar công suất lớn, các máy bay robot, máy bay trinh sát và vệ tinh trinh sát tạo thành một hệ thống quan sát tinh vi, bao trùm cả không gian 3 chiều của chiến trường, nhiệm vụ tổ chức một hệ thống ngụy trang, che khuất tầm nhìn trên một hoặc nhiều vùng rộng để hải thuyền, tàu ngầm có thể xuất kích bí mật, bất ngờ là yếu tố quan trọng trong bảo vệ lực lượng.

Hệ thống thông tin liên lạc, trinh sát và và kiểm soát an toàn thông tin là các mạch máu trong một hệ thống phòng thủ mạnh trước các đòn tấn công chế áp thông tin. Thành công trong bảo vệ mạng truyền thồng là cơ sở để triển khai hải chiến phòng thủ thành công. Khi xây dựng, bố trí và huấn luyện tác chiến, cần chú trọng các tình huống bị tấn công thông tin bằng các phương tiện vũ khí hiện đại.

Tác chiến tàu ngầm là nghệ thuật tác chiến quan trọng nhất của chiến đấu phòng thủ, nó bao gồm có tìm kiếm mục tiêu theo yêu cầu nhiệm vụ được giao, tấn công mục tiêu, phục kích dài ngày ở các khu vực có khả năng tấn công các hạm đội đối phương, quét mìn, triển khai lực lượng đặc nhiệm hải quân, đấu tranh chống lại các phương tiện săn ngầm như máy bay, các lớp tàu săn ngầm, chiến đấu với tàu ngầm đối phương. Lực lượng tàu ngầm có thể tác chiến độc lập hoặc tác chiến liên kết phối hợp với các binh chủng của hải quân.

Một tàu ngầm có thể quản lý nhiều mục tiêu, đồng thời các mục tiêu theo yêu cầu tác chiến cũng được quản lý bởi nhiều phương tiện chiến tranh như chiến hạm, không quân hải quân. Đặc thù của tác chiến tàu ngầm là bí mật triển khai lực lượng trên biển, tham gia các hoạt động tác chiến dưới biển (phục kích, tập kích, yểm trợ hỏa lực, săn ngầm và chống săn ngầm, cơ động từ quân cảng ra biển, và từ biển vào căn cứ đều phải bí mật tối đa. Các đòn tấn công thường được thực hiện bằng tên lửa hành trình, đạn đạo, hoặc ngư lôi chống tàu.

Máy bay Su 27 tấn công

Máy bay Su 27 tấn công mục tiêu.

Hệ thống phòng không phòng thủ bờ biển là yếu tố tiên quyết đảm bảo thắng lợi cho hệ thống phòng thủ. Khi tấn công, đối phương sẽ sử dụng những đòn tấn công từ tàu ngầm, tàu nổi, máy bay cường kích tên lửa. Hệ thống phòng không có nhiệm vụ quan trọng là đánh chặn các đòn tấn công bằng tên lửa hành trình, tên lửa đạn đạo, máy bay tàng hình tầm thấp, bom thông minh.

Do tính chất đặc thù của vũ khí hiện đại, hệ thống phòng không sẽ phải trải rộng, từ các hải thuyền, máy bay tiêm kích không hải đến các cụm pháo, tên lửa phòng không cố định hoặc cơ động, đa tầm và đa hướng. Hệ thống phòng không cần chú trọng phát triển các cỡ nòng khác nhau, từ cỡ nòng tầm rất thấp 12,7mm đến 14,5 mm, 23 mm, 30 mm và các loại tên lửa tầm thấp như Igla đến tầm trung Vonga, tầm xa như tổ hợp tên lửa S-300.

Các đơn vị phòng không phải được kết nối trong một hệ thống phòng không chiến thuật dạng mạng Net, tạo ra các cụm hỏa lực dầy đặc cơ động, trên biển, ven biển và cơ động bờ biển. Áp dụng triệt để hệ thống điều hành bằng công nghệ truyền thông dạng mạng đa điểm, đa trung tâm. Đa tầng chỉ huy, quản lý và kết nối chặt chẽ với các hệ thống chỉ huy, kiểm soát, truyền thông và liên kết phối hợp.

Trong giai đoạn phát triển công nghệ hiện đại ngày nay, với mức chi phí không lớn, có thể tạo ra được các khu vực nhiễu loạn điện từ, quang điện hoặc radio, vùng mù điều khiển đó rất nguy hiểm cho các loại vũ khí điều khiển như tên lửa hành trình, bom hoặc đầu đạn có điều khiển laser hoặc tự dẫn hồng ngoại. Khi các loại vũ khí hiện đại bay vào vùng nhiễu điện từ, quang học sẽ mất điều khiển và tự hủy. Việc nghiên cứu chế tạo phải được thực hiện ngay hôm nay, vì đó là khả năng phòng thủ mạnh mẽ của tương lai.

Máy bay SU 27 sử dụng tên lửa chống tàu bảo vệ vùng biển

Máy bay SU 27 sử dụng tên lửa chống tàu bảo vệ vùng biển.

Phương án phòng thủ cao nhất là tấn công, đối với các lực lượng đối phương có công nghệ quốc phòng và tiềm năng quân sự lớn, nguyên tắc sống còn trong tấn công vẫn là cơ động nhanh, bí mật, bất ngờ, sử dụng chiến thuật tập kích bí mật, các đòn tấn công dồn dập từ nhiều hướng, nhiều chiều, nhiều phương tiện hỏa lực, chú trọng tập trung các phương tiện hỏa lực như không quân hải quân, xuồng phóng ngư lôi hoặc tên lửa chống tàu tập trung vào một mục tiêu là phương thức chủ yếu để chống lại các hạm tàu hiện đại.

Các đòn tấn công có thể diễn ra trực tiếp, với mục tiêu là các chiến hạm hoặc tàu ngầm, nhưng cũng có thể gián tiếp bằng các lực lượng đặc nhiệm hải quân, như tàu ngầm hải quân đánh tiêu diệt các đoàn tàu quân sự vận tải, máy bay cường kích hoặc lực lượng đặc nhiệm hải quân đánh các căn cứ quân sự trên đất liền của đối phương hoặc trên đảo, trên tàu sân bay.

Tàu tuần biển sử dụng tên lửa chống tàu

Tàu tuần biển sử dụng tên lửa chống tàu.

TRỊNH THÁI BẰNG (TIỀN PHONG)

Đòn Rồng – kịch bản Trung Quốc tấn công phủ đầu Việt Nam

Kịch bản do hai chuyên gia Humphrey Hawksley và Simon Holberton những nhà báo kỳ cựu chuyên theo dõi khu vực Viễn Đông, đưa ra từ cuối thập kỷ 1990 trong cuốn sách “Đòn Rồng”, dựa trên những kinh nghiệm chính trị sâu sắc của mình cùng nhận định Viễn Đông luôn là điểm nóng” tiềm tàng, tiềm ẩn nhiều nguy cơ xung đột sẵn sàng bùng nổ.

Căn cứ hải quân Cam Ranh và Đà Nẵng là hai địa điểm đầu tiên được Trung Quốc lựa chọn cho đòn tấn công mở màn nhằm Việt Nam.

Sáng tinh mơ, 12 chiếc máy bay chiến đấu đa năng Su-27 hộ tống 20 chiếc máy bay cường kích A-7, máy bay tấn công mặt đất thế hệ mới của Trung Quốc – một phiên bản phát triển từ cường kích Su-24 Fencer của Nga nhanh chóng lao tới bờ biển Việt Nam, mục tiêu là Vịnh Cam Ranh, căn cứ quân sự lớn nhất của QĐND Việt Nam.

Dựa vào radar theo dõi mặt đất, những chiếc máy bay này xà thấp, khi trên đầu mục tiêu, chúng nhanh chóng cắt bom chùm xuống mặt đất. Những quả bom đã phá hủy căn cứ một cách nhanh chóng.

Sau khi cắt bom, những chiếc Fencer này vọt lên cao, những chiếc có gắn ổ súng ở dưới bụng đã bay vòng trở lại, tiếp tục xả đạn vào bất cứ chiếc Mig-21 Fisbed cũ kỹ của Việt Nam nằm trên đường băng.

Chỉ trong vòng 5 phút, hệ thống phòng không Việt Nam chỉ còn là đống đổ nát, méo mó. Các tòa nhà và dàn radar bị phá hủy, tháp kiểm soát không lưu không còn hoạt động.

Tuy nhiên, đòn phủ đầu này chưa thể phá hủy hoàn toàn căn cứ. Ngay lập tức, 24 máy bay ném bom chiến lược H-6, bản sao của máy bay ném bom phản lực cánh quạt Tu-16, xuất phát từ căn cứ không quân Hải khẩu ở phía nam đảo Hải Nam lao đến. Phạm vi hoạt động 2.000 km, mang được 5 tấn bom, những chiếc TU-16 này được 12 máy bay đánh chặn Thẩm Dương J-8II cánh tam giác bảo vệ. Man theo thùng dầu phụ, J-8 đủ sức bay theo H-16. Hệ thống radar Zhuk do Nga sản xuất cho phép J-8 đồng thời theo dõi 10 mục tiêu. Cuối cùng là những chiếc máy bay tiếp dầu vốn được cải tạo từ máy bay vận tải Nga IL-78 bay cách đó 500 km để đảm bảo những chiếc máy bay tấn công có đủ nhiên liệu khi quay về.

Cuộc không chiến đầu tiên của Đòn Rồng diễn ra trong vòng chưa đầy 30s, một chiếc J-8 bám theo 2 chiếc Mig-21 đan trên đường tuần tra thường lệ trở về. Chiếc đầu tiên bị bắn hạ bằng tên lửa tầm gần. Chiếc thứ hai thoạt đầu gặp may vì thiết bị dò tìm mục tiêu trên tên lửa bị lẫn lộn bởi hai máy bay đang bay theo đội hình…

Cuộc tấn công của những chiếc H-6 là thảm họa chưa từng có trong một căn cứ quân sự của NATO (ám chỉ căn cứ này do Mỹ xây dựng đầu tiên). Lý do là khi xây dựng căn cứ, người ta không đặt ra vấn đề giúp nó tồn tại qua một cuộc tấn công bất ngờ.

Nhưng chưa phải đã hết, khi những chiếc ném bom chiến lược hoàn thành nhiệm vụ. Tiếp tục một phi đội A-7 (nhái từ máy bay cường kích Su-24 Fencer) lao đến. Mỗi chiếc đem theo 4 quả tên lửa chống hạm C-802. Trong vòng vài phút. Mọi quả tên lửa đều được bắn ra, mục tiêu là các chiến hạm Việt Nam đang trú trong căn cứ.

Cùng lúc đó, không quân Trung Quốc cũng ra tay chớp nhoáng với căn cứ Đà Nẵng. Lãnh nhiệm vụ tấn công là 12 chiếc Su-27, 12 chiếc A-7 và 12 máy bay ném bom chiến đấu JH-7 (Jang Hong) của hải quân Trung Quốc.

Vì sự chậm chạp của những chiếc JH-7 trong khi những chiếc Su-27 gây nhiễu chậm chạp khiến 15 chiếc Mig-21 của Việt Nam có thời gian bay lên nghênh chiến.

Mặc dù không thể so sánh được với Su-27 nhưng do các phi công Việt Nam được đào tạo tốt hơn, số giờ bay nhiều hơn. Hai chiếc 2 chiếc JH-7 đã bị bắn hạ: Một do Mig 21, một do tên lửa phòng không SA-6 Kub. Cả phi đội Mig 21 bay thoát khỏi cuộc tấn công…

*     *     *

Bối cảnh trực tiếp tạo cảm hứng để Humphrey Hawksley và Simon Holberton thực hiện cuốn sách “Đòn Rồng” là thời điểm Trung Quốc bắt đầu trỗi dậy với sự kiện Trung Quốc tiến hành một loạt các cuộc tập trận lớn dọc bờ biển phía Đông năm 1996. Trước đó một năm, họ cũng đã gây ra một số cuộc đụng độ nhỏ ở biển Đông. Là cuốn sách giả định cho tương lai nhưng họ đã mô tả khá chi tiết những khả năng có thể xảy ra, chi tiết đến cả những diễn biến trên thị trường trường khoán khi cuộc chiến xảy ra, mối quan hệ chằng chịt và phức tạp giữa các quốc gia với tập đoàn xuyên quốc gia, các cá nhân ở các quốc gia đối đầu với nhau…

Cuốn sách cũng đã được một loạt các chuyên gia quân sự góp ý, hiệu đính, như: David Tait – cựu sĩ quan tác chiến của tàu ngầm tấn công HMS Opossum giúp vạch kế hoạch tác chiến của tầu ngầm diesel điện của Trung Quốc; John Myers, một cựu chỉ huy tàu ngầm hạt nhân kiêm chủ bút tờ tạp chí quân sự Jane’ Fighting Ships thẩm định; John Downing, cựu sĩ quan tình báo hải quân Anh…

Đương nhiên, kịch bản trên đã lạc hậu khi thời thế đã có nhiều thay đổi, khó lòng cho phép một cuộc tấn công toàn diện như vậy diễn ra và cũng khó lòng có một cuộc “dạo chơi” dễ dàng như vậy cho bất cứ thế lực nào muốn tấn công Việt Nam.

Mặt khác, các tác giả cũng đã đánh giá quá thấp năng lực cảnh giới của Việt Nam. Chưa kể, hệ thống mắt thần Việt Nam đã được hiện đại hóa đáng kể, đủ sức bao quát mọi động tĩnh trên biển Đông. Việt Nam cũng đã cũng đã sở hữu hệ thống radar chủ động cực kỳ hiện đại Kolchuka, có thể phát hiện cả máy bay tàng hình từ khoảng cách xa. Vì vậy, câu chuyện “hai chiếc Mig-21 cũ kỹ trên đường tuần tra về bị bắn hạ mà không phát hiện ra đối phương” là chuyện hết sức nực cười.

Về năng lực phòng không, bên cạnh lưới lửa phòng không dày đặc, Việt Nam cũng đã nâng cấp hệ thống lên lửa phòng không tầm trung SA-3 lên chuẩn S-125 Petrora, đủ sức chống lại mọi phương tiện bay hiện đại; các hệ thống phòng không S-300 hiện đại.

Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đã sở hữu hàng chục chiếc tiêm kích đa năng hiện đại thế hệ 4 và 4++ Su-27, Su-30.

Theo PHÁP LUẬT & ĐỜI SỐNG

TỴ NẠN TRUNG HOA TẠI AN NAM VÀ XỨ CHÀM CUỐI THỜI NHÀ TỐNG

(Chinese Refugees In Annam And Champa At The End Of The Sung Dynasty)

Ký sự của Hok Lam Chan
Chuyển ngữ: Ngô Bắc

 

Tháng Hai năm 1276, thủ đô nhà Nam Tống tại Lâm An (tức Hàng Châu ngày nay) rơi vào tay quân Mông Cổ, và vị hòang đế cuối cùng của nhà Tống, Chao Hsien, bị bắt giữ.  Với sự trợ giúp của các quan thượng thư trung thành, các thành viên còn lại của hòang gia chạy trốn về miền nam. 

Trong tháng Sáu, Chao Cheng mới chín tuổi được tôn lên làm vua (Tuan-tsung) tại Phúc Châu.  Tuy nhiên, các quan lại cao cấp của tỉnh Phúc kiến từng người một đã bỏ ngũ chạy sang phía Mông Cổ, hòang gia không bao lâu lại phải triệt thóai sâu xuống phía nam hơn nữa, tới tỉnh Quảng Đông.  Tháng Ba năm 1277, cứ điểm nhà Tống tại thành phố Quảng Đông (Canton) cũng bị sụp đổ và hòang gia phải vội vã trốn chạy về Mei-wei, trong vùng lân cận của bán đảo Cửu Long (Kowloon), thuộc Hồng Kông ngày nay.   Tháng Mười Một, dưới áp lực gia tăng của Mông Cổ, họ phải rút lui theo hướng tây nam dọc theo bờ biển Quảng Đông.  Bởi vì Chao Hsien có vẻ không bao giờ tái lập sự kiểm sóat được nữa và bởi có vẻ có vài cơ may để tỵ nạn nơi các vương quốc phiên thuộc Chàm và An Nam (Việt Nam ngày nay), một đợt xuất cảnh hỗn lọan của người Trung Hoa đã xảy ra.  Bi kịch của vị hòang đế cuối cùng của nhà Tống đã khơi dậy nhiều tình cảm trong lịch sử, nhưng câu chuyện di dân và tìm nơi tỵ nạn của một số viên chức nhà Tống đã chưa được tìm hiểu đầy đủ.  Bài viết này cố gắng đưa ra một sự tường thuật mô tả và trình bày một sự phân tích ngắn về những yếu tố nền tảng đã định hình diễn tiến di dân, cũng như tác động của nó trên ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa được nâng cao tại Việt Nam.

Trong số các quan thượng thư trung thành quy tụ sự ủng hộ cho hòang gia, có bốn khuôn mặt nổi bật nhất: Ch’en I-chung (Trần Nghi Trung?, chú của người dịch] (chết sau năm 1282), Chang Shi-chieh (Trương Thế Chieh] (chết năm 1279), Lu Hsiu-fu (1238-1279), và Su Liu-I.  Chen I-chung, một nội các đại thần, đã là người đầu tiên cứu xét đến khả tính tìm chỗ tỵ nạn tại xứ Chàm.  Lý do là vì nước Chàm không qúa xa bờ biển Quảng Đông, và là một chư hầu của nhà Tống, nước Chàm có lòng trung thành và thân thiện với Trung Hoa.  Ông Ch’en đã khởi hành đến xứ Chàm cùng với các tùy tùng thân cận trong tháng Mười Hai năm 1276 để tìm hiểu tình hình. Su Liu-I, một quan chức cao cấp trong được đòan thị vệ hòang cung, không đồng ý với kế họach của ông, đã đuổi theo thuyền của ông Ch’en trong một nỗ lực thuyết phục ông bãi bỏ chuyến đi, thế nhưng qúa trễ để ngăn chặn ông ta. Một khi đã đặt chân lên xứ Chàm, ông Ch’en đã không bao giờ quay về để gia nhập tóan tỵ nạn hòang gia, mà đã ở lại đó, với lý do là ông nhận thấy mọi việc vượt quá tầm tay của ông để có thể nỗ lực hơn nữa nhằm cứu vãn triều đại.  Các sự tường thuật về sự di chuyển của ông khá hỗn tạp; một số cho rằng ông đã chạy trốn sang đảo Java, một số khác nói rằng sang Căm Bốt, và còn có cả tin nói ông sang Nhật Bản.  Nhưng theo tập Sung-shih (Tống sử), khi quân Mông Cổ khuất phục xứ Chàm vào năm 1282, ông chạy trốn sang nước Xiêm và từ trần sau đó.

Tuy nhiên, Shih Wen-kuang (Thạch Văn Quang), một trong những phụ tá chính của ông ta, đã không kéo dài thời gian lưu vong. Ông này đã quay lại từ xứ Chàm về thành phố Quảng Đông với một đội thuyền và đội quân tình nguyện người Chàm.  Sau khi có sự sụp đổ của nhà Nam Tống, nạn hải tặc hòanh hành dọc bờ biển tỉnh Quảng Đông.  Với sự  ủng hộ của các người gốc Chàm, Shih Wen-kuang đã thiết lập một thành lũy vững chắc tại thị trấn quê quán của ông, thị trấn Tseng-ch’eng, và đã đẩy lui nhiều cuộc tấn công của hải tặc.

 Trong khi vắng mặt Ch’en I-chung, hòang gia, dưới áp lực nhiều hơn nữa của quân truy kích Mông Cổ, triệt thóai về Chinh-so thuộc huyện Chung-shan (Trung Sơn) ngày nay.  Tháng Giêng năm 1277, một cơn giông tố đã đánh vào đòan thuyền tỵ nạn.  Vì quá hỏang sợ, ấu chúa đã băng hà hồi tháng Năm tại Nao-chou, một hòn đảo nằm giữa Lei-chou và Hua-chou.  Kế đó, người em trai tám tuổi của ấu chúa đã được tôn lên kế nhiệm ngai vàng.  Chang Shih-chieh được cử nhiệm làm quan phụ trách binh bị với tước hiệu thiếu phó (kèm nhà vua), và trở thành quan chức cao nhất trong triều đình tỵ nạn, và hai ông Lu Hsui-fu và Su Liu-I được cử làm tư lệnh chỉ huy quân đội.

Giống như vị tiền nhiệm Ch’en I-Chung, Chang Shih-chieh cũng cứu xét tới giải pháp tìm kiếm nơi tỵ nạn, có lẽ tại An Nam, phía bắc của xứ Chàm. Điều này xảy ra sau khi có sự thất trận của các lực lượng nhà Tống và sau sự từ trần của hòang đế tại Yai-shan thuộc huyện Hsin-hui ngày nay hồi tháng Hai năm 1278.  Vào đầu tháng Bẩy 1277, triều đình hòang gia đã di chuyển từ Nao-chou về Yai-shan: lý do là vì Nao-chou là một hòn đảo ngòai biển khơi, khiến cho việc truyền tin giữa triều đình và các thần dân trung thành trong lục địa gặp nhiều khó khăn.  Tuy nhiên, trong tháng Hai kế đó (năm 1278), đội quân nhà Tống bị bao vây bởi quân Mông Cổ dưới quyền chỉ huy của một kẻ đào ngũ khỏi nhà Tống, Chang Hung-fan (1238-1280), và đã phải chịu một tổn thất khổng lồ.  Đòan tỵ nạn hòang gia vô cùng nguy khốn.  Chang Shih-chieh tìm cách thóat khỏi vòng vây, trong khi Lu Hsiu-fu, không trốn được, đã nhảy xuống biển tự vận.  Về số phận của ấu chúa, sự tường thuật phổ biến cho rằng ấu chúa bị chết trên biển cùng với Lu Hsiu-fu, nhưng trong một cuộc nghiên cứu gần đây, có vẻ là ấu chúa đã chết vì sự kinh hòang khi chiếc thuyền của ông ấy bị bể vỡ trong cuộc bao vây.  Tuy nhiên, quân Mông Cổ vẫn chưa tin ở sự từ trần của ấu chúa.  Lo sợ rằng có thể cuối cùng ấu chúa sẽ bỏ chạy sang xứ Chàm, nơi ấu chúa sẽ có được sự che chở của Ch’en I-Chung, họ tiếp tục truy tìm cho đến khi khám phá ra được thi thể của ấu chúa tại Kao-chou.  Hòang thái hậu, nhũ danh Yang, đau khổ vì cái chết của đứa con, đã trầm mình tự vận nơi biển khơi.  Thi thể bà đã trôi giạt về Nghệ An thuộc xứ Chàm [?, khi đó Nghệ An đã thuộc Việt Nam từ lâu, chú của người dịch], nơi mà các thổ dân đã dựng các ngôi đền tưởng nhớ bà, và sau này, bà còn được tôn thờ và phong làm nữ thần của biển cả.  Tuy nhiên, tin đồn rằng vị hòang đế nhà Tống hãy còn sống sót đã đem lại năng lực cho những kẻ trung thành dọc bờ biển Quảng Đông tố chức nhiều cuộc nổi dậy chống lại quân Mông Cổ nhằm bảo vệ đòan tỵ nạn hòang gia.  Chang Shih-chieh sống sót qua cuộc thất trận và quyết tâm đi đến An Nam để tìm kiếm một vài hậu duệ của gia đình nhà vua có thể kế truyền huyết thống của hòang gia. Trên đường đi, thuyền của ông bị lật nhào tại vịnh Ping-chang, nay thuộc huyện Yang-chiang. Ông Chang bị chết đuối và do đó đã kết thúc nỗ lực sau cùng của một đại thần trung thành muốn khôi phục uy quyền của nhà Nam Tống.

Sau khi có sự sụp đổ của triều đình nhà Tống tại Yai-shan, hai viên chức cao cấp, Ch’en Chung-mei (1212-1283) và Tseng Yen-tzu (chết sau năm 1284) đã thành công trong việc trốn thóat sang An Nam.  Ch’en, một người đỗ bằng chin-shih [tiến sỉ?, chú của người dịch] năm 1238, đã bị giáng cấp làm một chức quan nhỏ tại Quảng Đông bởi sự phê bình của ông nhắm vào Chia Ssu-tao (1213-1275), một chính khách bị chỉ trích nặng nề nhất của triều Nam Tống.  Khi ấu chúa chạy đến thành phố Quảng Châu, Ch’en đã nhanh chóng gia nhập triều đình và được bổ nhiệm làm Đại Thần phụ trách Nhân Viên.  Sau khi có sự sụp đổ của nhà Tống, Ch’en đã tỵ nạn tại An Nam và đã được tiếp đón ân cần bởi vua Trần Khoan [? tên húy của vua Trần Thánh Tông là Hỏang, chú của người dịch] (tức Trần Thánh Tôn, 1258-1278) (14) [*a, xem chú *a của người dich].  Khi ông Ch’en từ trần, ông có để lại một bài thơ với các dòng chữ bày tỏ tấm lòng hòai vọng cố hương của ông:

“Khi tôi chết tôi sẽ quay về như một linh hồn từ An Nam.

Khi sống tôi là một thần tôi bất khuất của triều đình nhà Nam Tống”.

Nhà vua Nam cũng là một nhà thơ nổi tiếng, được nói có làm một bài thơ ai điếu cho ông ta [*b, xem chú của ngườI dịch].

Ch’en được cho rằng là có viết một tác phẩm nhan đề Erh-wang pen-mo [Nhị Vương Bản Mộc?, chú của người dịch], trình bày số phận của hai vị hòang đế sau cùng của nhà Tống.  Bản văn này được chuyển về Trung Hoa từ An Nam xuyên qua một sứ giả của Mông Cổ hồi năm 1281.  Tuy nhiên, Jao Tsung-I, một học giả hiện đại, nghi ngờ rằng bản văn này là một sự ngụy tạo của các văn gia nhà Nguyên (Mông Cổ).  Một thập kỷ sau đó, con trai của ông tên Ch’en Wen-sun, bỏ trốn sang phía Mông Cổ và bị kết tội bởi người An Nam là đã chỉ huy quân thù tiến đánh An Nam vào năm 1284.  Vô cùng tức giận, nhà vua nói trên đã ra lệnh dùng búa đập nát quan tài của Ch’en Chung-mei.

Tseng Yen-tzu [*c, xem chú của người dịch] là một quan chức cao cấp khác chạy trốn sang An Nam.  Tseng, đậu bằng chin-shih năm 1250, đã được bổ nhiệm về đô sát viện tại Lei-chou nằm 1275.  Khi hòang triều triệt thóai về thành phố Quảng Đông, ông tự động ra trình diện và được bổ nhiệm làm ủy viên tỉnh Quảng Tây. Trong một cuộc hải chiến với quân Mông Cổ, ông bị gió thổi bay trên sàn tàu nhưng được cứu thóat bởi thủy thủ đòan.  Sau đó ông đã lên chiếc thuyền của Su Liu-I và đã đến được An Nam một cách an tòan. Giống như Ch’en Chung-mei, ông được dành cho một sự tiếp đón nồng hậu bởi người An Nam.  Khi quân Mông Cổ tiến chiếm An Nam, ông và ông Su Liu-I [*d, tức Tô Lưu Nghĩa, theo An Nam Chí Lược đã bị đàn em giết tại Trung Hoa chứ không có qua An Nam, xem chú của người dịch], đều bị bắt giữ.  Trong thời gian tỵ nạn tại An Nam, ông có làm một số bài thơ ca ngợi phong cảnh của xứ sở này; các bài thơ này được phổ biến rộng rãi trong giới học giả bản xứ.

Trong Quyển viết về An Nam trong Yuan-shih (Nguyên sử), có ghi nhận rằng khi quân Mông Cổ chế ngự An Nam, họ đã bắt được hơn bốn trăm quan chức nhà Tống tỵ nạn.  Tuy nhiên, có thể đã có một số lượng lớn hơn các quan chức nhà Tống chạy sang tỵ nạn tại An Nam và các nước láng giềng khác.

 Sau khi có sự sụp đổ của nhà Nam Tống, một vài quan chức trung thành có phóng ra một sự kháng cự cứng rắn chống lại quân Mông Cổ với sự liên minh của người An Nam tại vùng biên giới Trung Hoa-An Nam.  Thí dụ, Huang Sheng-hsu, một thổ quan, thuộc châu Shang-ssu chou, tỉnh Quảng Tây, đã đẩy lui nhiều cuộc xâm nhập của quân Mông Cổ vào lãnh địa của ông ta hồi năm 1292 với sự trợ giúp của người An Nam.  Sau hai năm đấu tranh, phe trung thành sau cùng bị đập tan.  Huang chạy trốn sang Giao Chỉ (Bắc Việt ngày nay) và đã được che chở bởi một ông hòang bản xứ cương quyết từ chối không chịu giao nạp ông ta cho quân Mông Cổ.  Từ năm 1297 trở đi, ông Huang có phóng ra các cuộc đột kích rời rạc từ căn cứ của ông vào phía nam tỉnh Quảng Tây, như không thu gặt được mấy sự thành công [*e] .

Sử ký biên niên của An Nam thế kỷ mười ba, quyển Đại Việt Sử Ký Tòan Thư, có lưu giữ những tài liệu về các dân tỵ nạn nhà Tống tại An Nam.  Theo quyển sử này, đã có ba sự kiện quan trọng trong lịch sử di dân của người Trung Hoa sang Việt Nam xảy ra trong thập kỷ cuối cùng của nhà Nam Tống:

1.      Tháng Mười Hai năm 1263, Huang Ping, một “thổ tù” từ Ssu-ming chou [châu Tư Minh?, chú của người dịch], tỉnh Quảng Tây, xuất cảnh sang An Nam, cùng với một đòan  vào khỏang hai ngàn người, và có đem theo các phẩm vật tiến cống để tặng các ông hòang bản xứ [*f] .

2.               Tháng Mười, năm 1274, một đòan tỵ nạn dân nhà Tống đáp vào vịnh Lacat-nguyên [?], An Nam.  Họ đến trong một đòan gồm 30 chiếc thuyền mang theo gia đình và sản phẩm để trao đổi, chính yếu là vải vóc và dược liệu của Trung Hoa.  Họ được đón tiếp nồng nhiệt bởi các thẩm quyền địa phương và được cấp cho những khu định cư đặc biệt tại kinh đô Thăng Long (Hà Nội ngày nay).  Những người tỵ nạn này có biệt danh là “hui-chi: hồi kê” (trở về từ đất nhiều gà lùn: return from the land of poultry) bởi vì người Trung Hoa thời Tống mệnh danh Chàm là “Chi-kuo” (xứ gà vịt: kingdom of poultry) [*g].

3.               Trong năm 1285, một người Trung Hoa nào đó có tên là Chao Chung (Triệu Trung) được thuật lại là đã trợ giúp Hòang Thân Trần Nhật Canh [?,đúng ra là Trần Nhật Duật, chú của người dịch], trong việc đẩy lui một cuộc xâm lăng của Mông Cổ tại Hàm Tử Quan.  Triệu [Trung] là một người tỵ nạn nhà Tống đã được tuyển mộ bởi Hòang Thân vào đội quân riêng của ông. Ông cùng binh sĩ đã mặc quân phục chiến đấu của nhà Tống.  Khi quân Mông Cổ nhìn thấy đòan quân, họ đã sửng sốt nghĩ rằng các lực lượng Tống có thể đã đến giúp người An Nam ở đó, và hậu quả là tinh thần họ đã suy giảm và các cuộc tấn công của họ đã bị nới lỏng [*h].

Một tập tạp ghi thời nhà Minh, Cho-ying-t’ing-pi-chi viết bởi Tai Kuan, bao gồm một sự tường thuật về các người tỵ nạn thuộc nhà Tống tại xứ Chàm.  Theo quyển sách này, một viên chức cao cấp nhà Tống nào đó có tên Shen Ching-chih đã chạy sang xứ Chàm sau khi có sự sụp đổ của nhà Tống và đã đưa ra một lời thỉnh cầu lên ông hòang xứ Chàm hãy gửi sự trợ giúp để cứu vãn hòang triều. Ông hòang này nhận thức rằng mình không đủ sức để can thiệp, đã tỏ ý rất tiếc phải từ chối.  Khi ông Shen mất đi, ông hòang có làm một bài thơ bày tỏ nỗi đau buồn của ông.  Tuy nhiên, sự tường thuật này đáng bị nghi ngờ, bởi không có vết tích gì về vị “quan chức cao cấp” như thế trong bất kỳ tài liệu nào của nhà Tống.   Hơn nữa, câu chuyện được nói có cùng một cốt truyện về ông Ch’en Chung-mei, một quan chức nhà Tống quan trọng mà sự tường thật về cuộc đời đã được nêu ra ở trên.  Ngòai ra, những câu thơ đầu tiên của bài thơ được nói là viết bởi vị vua Chàm lại giống hệt như những dòng thơ được viết bởi vị quốc vương An Nam để tưởng niệm quan chức được đề cập tới sau [tức Ch’en Chung-mei, chú của người dịch].   Bởi thế, tôi [tác giả bài viết này, chú của người dịch] nghi ngờ rằng Shen có thể chỉ là một nhân vật cấp thấp trong nhóm người tỵ nạn, và câu chuyện về người này rất có thể là bản chuyển dịch dân gian câu chuyện về cuộc đời của Ch’en Chung-mei.

Tập Nguyên sử có gồm hai sự tường thuật về các hành động hào hiệp của một số người tỵ nạn nhà Tống nào đó tại xứ Chàm.  Câu chuyện thứ nhất liên quan đến việc làm sao mà một ông hòang xứ Chàm, theo lời cố vấn của một “man-tzu” nào đó, đã bắt giữ một sứ giả của Mông Cổ được phái đến nước Xiêm đã tình cờ đi ngang qua lãnh địa của ông hòang hồi năm 1282.  Rất có thể người này là một kẻ tỵ nạn dân nhà Tống, bởi “man-tzu” là từ ngữ của Mông Cổ để chỉ người Trung Hoa sinh sống tại miền Nam Tống đã bị khuất phục.  Sự tường thuật thứ nhì kể lại làm thế nào mà một ông hòang khác của xứ Chàm đã sử dụng một cư dân Trung Hoa, có lẽ là một người tỵ nạn thuộc nhà Tống có tên là Tseng Yen, để trù họach một mưu kế nhằm bóp nghẹt một cuộc xâm lăng của Mông Cổ trong cùng năm đó, gây ra bởi sự từ chối của ông hòang không chịu tuyên hứa trung thành với nhà Nguyên (Mông Cổ).  Các lực lượng bản xứ không cách nào đối xứng được với quân Mông Cổ, và họ đã triệt thóai lên vùng đồi núi.  Ông hòang đã gửi ông Tseng đó đóng vai như một kẻ chỉ điểm chạy sang phe Mông Cổ trong một mưu toan xô đẩy quân Mông Cổ rơi vào bẫy.  Không may kế họach đó bị đổ bể và ông Tseng đã bị bắt giữ.

Sự kề cận về địa dư và mối quan hệ chặt chẽ giữa Trung Hoa với An Nam và xứ Chàm, như giữa quốc gia bá quyền và các chư hầu đã là hai yếu tố chính làm nền tảng cho sự di dân.  Yếu tố địa dư có tính cách quan trọng hơn.  Vào lúc khi mà phần lớn đất đai trong lục địa Trung Hoa đã mất vào tay Mông Cổ và thẩm quyền nhà Tống bị thu nhỏ lại vùng ven biển, hòang gia không có giải pháp nào khác hơn là chạy về phía nam bằng đường biển.  Lại nữa, với sự truy kích gắt gao của quân Mông Cổ, không có nơi trú náu nào khác hơn ngọai trừ đi đường biển xuống hướng tây nam của tỉnh Quảng Đông.  Khi cứu xét về sự kề cận địa dư, An Nam và Chiêm Thành (Chàm), hãy còn ở xa tầm áp lực của quân Mông Cổ, có vẻ là nơi ẩn náu an tòan duy nhất.  Về yếu tố thứ nhì, sự kết buộc chặt chẽ lâu đời giữa Trung Hoa và các vương quốc Việt Nam như giữa quốc gia bá chủ – chư hầu, cũng đóng một vai trò đáng kể.  Nhiều thành tố đã phải góp phần vào việc củng cố mối quan hệ ràng buộc này, chẳng hạn như: sự liên hệ chủng tộc, sự thuận tiện về chính trị, sự cam kết tinh thần về một trật tự quốc tế theo tinh thần Khổng học, các đặc quyền mậu dịch béo bở dưới hình thức các phái bộ mang phẩm vật tiến cống, và nhiều thành tố khác.  Chính vì mối quan hệ bá chủ-chư hầu này mà người tỵ nạn Trung Hoa đã xem những vương quốc này tại vùng Đông Nam Á như là những nơi có thể ẩn náu trong những thời buổi có sự xáo trộn xã hội và chính trị.  Có lẽ cũng chính vì cùng lý do này mà triều đình nhà Tống đã nhận thức rằng việc triệt thóai sang An Nam và xứ Chàm là một giải pháp khả thi.

            Cử chỉ thân mật mà các vị vua bản xứ dành cho các người tỵ nạn đời nhà Tống cũng có thể được hiểu trong bối cảnh này.  Một mặt, là một chư hầu của một đế quốc vĩ đại, có vẻ đối với họ việc cung cấp nơi ẩn náu cho hòang gia nhà Tống trong những thời kỳ khủng hỏang là một công tác danh dự.  Mặt khác, chính họ là hậu duệ của Trung Hoa [nói riêng các vua đời nhà Trần, xem chú thích 30 và chú  thích *i của người dịch bên dưới], họ có khuynh hướng nghiêng về phe người Trung Hoa và xác định người Mông Cổ là kẻ thù của họ.  Sau hết, sự nhận thức về mối đe dọa quân sự lơ lủng trên đầu từ Mông Cổ và sư lo sợ rằng các người dân du mục này có thể, không như người Trung Hoa, sẽ áp đặt nền trực trị trên họ chứ không phải duy trì nguyên trạng như các nước bá chủ – chư hầu, đã thúc dục họ đi đến việc bảo vệ hòang gia nhà Tống và ngay cả việc liên minh với những kẻ trung quân Trung Hoa chống lại kẻ thù chung.

            Trong một khía cạnh khác của cuộc di dân nhà Tống, sự lựa chọn địa phương để đổ bộ và tái định cư cũng là một vấn đề đáng cứu xét về mặt lịch sử.  Từ những tài liệu rời rạc có được, rõ ràng là phần lớn các người tỵ nạn đến từ vùng ven biển, đặc biệt là những người từ tỉnh Phúc Kiến vốn đã tham gia vào trong họat động mậu dịch hải ngọai, đã cập bến Việt Nam bằng đường biển.  Nhiều phần là họ các đi theo hải trình đương thời và đã cập bến vào những hải cảng ở An Nam hay Chiêm Thành mà họ đã quen thuộc qua kinh nghiệm mậu dịch.  Các hải lộ có vẻ là khá thuận tiện, bởi đã có việc ghi nhận rằng khi thuận gió, một chiếc thuyền đi từ thành phố Quảng Châu (Canton) có thể sẽ tới xứ Chàm trong tám ngày.  Khi cứu xét về đường bộ, các khu vực biên giới của Bắc Việt có vẻ là các địa điểm thuận tiện cho sự xâm nhập của người tỵ nạn.  Bản chất của khu định cư thực dân Trung Hoa đương có và khả tính cho họat động mậu dịch mang đến một lý lẽ khác cho sự lựa chọn địa điểm và sự tái định cư trong cuộc di dân tỵ nạn.  Người ta cũng có thể ức đóan về sự kiện rằng các người tỵ nạn Trung Hoa đã được cấp phát các khu vực tái định cư đặc biệt tại Hà Nội nhiều phần là để khuyến dụ các kẻ khác đến gia nhập.  Các hải cảng thương mại nơi mà các thương nhân Trung Hoa đã có kinh nghiệm lâu năm trong việc trao đổi với các người dân bản xứ có vẻ là một địa điểm được ưa thích khác cho sự tái định cư  người tỵ nạn.  Bản chất của khu định cư thực dân Trung Hoa hiện hữu và các cơ hội thương mại có được vì thế đã là các yếu tố quan trọng trong việc định hình nhãn quan của các người tỵ nạn Trung Hoa tại An Nam và Chiêm Thành [lúc bấy giờ].

Cuộc di dân tỵ nạn đời nhà Tống đã tác động một cách đáng kể trên sự phát triển các thuộc địa Trung Hoa và tầm ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa gia tăng tại Việt Nam.  Giống như các cuộc di dân tỵ nạn khác trong lịch sử, các người Trung Hoa đời nhà Tống đã xuất cảnh sang An Nam và xứ Chàm với hy vọng ban đầu là tìm kiếm một nơi ẩn náu tạm thời và sẽ trở về Trung Hoa sau rốt.  Không may, niềm hy vọng của họ bị giảm dần với sự chinh phục của Mông Cổ trên vùng lục địa Á Châu và các vương quốc lân bang. Với thời gian trôi qua, tư thế của họ đã thay đổi từ tạm thời sang thường trực, và từ người tỵ nạn sang dân thường trú.  Như Wada Hisanori đã nhận xét, làn sóng di dân thời nhà Tống này đã đặt nền móng cho sự định cư thực dân Trung Hoa có tính cách thường trực hơn tại Việt Nam.  Lý do là vì sự chinh phục Trung Hoa bởi một chủng tộc xa lạ đã làm tiêu tán hy vọng về một sự hồi hương sau rốt về quê quán trong lòng người tỵ nạn.  Chính như thế, các dân tỵ nạn đời Tống nhất thiết đã có một tác động đáng kể trên ảnh hưởng gia tăng của Trung Hoa tại Việt Nam.  Không giống với những triều đại trước đó, khi mà các người Trung Hoa đến định cư tại An Nam, Chiêm Thành và các quốc gia Đông Nam Á khác phần lớn là các thương nhân, các người chạy trốn hay các hạng người khác thuộc tầng lớp xã hội dưới thấp, lần này nòng cốt của số người tỵ nạn được tuyển chọn từ  nhóm người thượng lưu thuộc gia đình hòang tộc và giới sĩ phu học giả.   Sự cư trú của lớp người học thức và tỵ nạn chính trị như Ch’en Chung-mei và Tseng Yen-tzu nhất định đã góp phần vào việc cải thiện phẩm chất và nâng cao vị thế xã hội và chính trị của các cư dân Trung Hoa tại Việt Nam và nhất thiết đã góp phần vào sự phát huy văn hóa Trung Hoa (34)[*j].  Khi nhìn dưới hai yếu tố này, cuộc di dân đời nhà Tống sang Việt Nam xứng đáng được xem là một giai đọan đáng kể trong lịch sử quan hệ Hoa-Viêt.

HÌNH ẢNH KÝ ỨC TRƯỜNG SA

Đoàn công tác Bộ tư lệnh Công binh trên căn nhà thuộc thế hệ đầu ở đảo Thuyền Chài tháng 5-1988 Ảnh do – Bảo tàng Hải quân cung cấp

Điểm ném đá xây mới nhà cấp 1 bêtông cốt thép trên đảo Tốc Tan A tháng 3-1999 – Ảnh: Phạm Văn Minh
Những ngôi nhà thuộc thế hệ đầu tiên trên đảo Thuyền Chài B – Ảnh do Bảo tàng Hải quân cung cấp
 
Nhà lắp ghép trên đảo chìm – Ảnh: Phạm Văn Minh
Ngày ấy, thanh niên nô nức xung phong ra Trường Sa để xây dựng và bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ Quốc. Đây là quang cảnh buổi đưa tiễn các anh lên đường làm nhiệm vụ
Trường Sa ngày ấy, hoang vu và cô quạnh đã bừng lên như một công trường lớn…

Hàng vạn tấn ximăng, bêtông cốt thép được vận chuyển ra để xây dựng cầu cảng và xây kè chắn sóng bảo vệ Đảo trong chiến dịch CQ’88
Và những người lính ấy, những người đã cùng chia nhau một điếu thuốc, một miếng cơm,… cùng trải qua những gian khó ấy, như càng thêm thấm thía, càng khắc sâu thêm ý nghĩa thiêng liêng của tình đồng đội, của tình người, tình yêu Tổ quốc…
03.
Trộn bêtông để xây kè chắn sóng bảo vệ Đảo

Tàu HQ 503 (Một trong những con tàu lớn nhất của Hải quân Việt Nam thời bấy giờ, cùng loại với tàu HQ 505) vận chuyển vật liệu ra xây dựng Đảo.
05.
Cán bộ chiến sỹ thay ca nhau ngày đêm vận chuyển vật liệu lên Đảo. Đây là phút nghỉ ngơi sau gần một đêm trọn lao động vất vả
06
Giờ giải lao bên cột mốc Chủ quyền tại Trường Sa
Chim nhiều đến mức, đi tuần, luôn đạp phải trứng chim


Còn đây là cận cảnh, đảo Trường Sa, có các em bé, mà chú Time chụp bây giờ,


Còn đây là quân cảng ở đảo Trường Sa, chụp năm 1983, năm đó, phòng thủ đảo vẫn là hàng rào giây thép gai

Đảo Trường Sa sau ngày giải phóng

Chiến sĩ đoàn đặc công 126 giải phóng đảo Song Tử Tây-Tư liệu
Hải quân Việt Nam trên đảo Song Tử Tây (thuộc quần đảo Trường Sa)

Vận chuyển vật liệu xây dựng trên quần đảo Trường Sa trước năm 1988


Đảo Trường Sa sau ngày giải phóng
BQT: Trong quá trình sưu tập tư liệu, chúng tôi đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của chú Chu Trí Thành, một cựu chiến binh đã từng tham gia bảo vệ chủ quyền Tổ quốc tại Trường Sa Lớn vào những ngày tháng lịch sử năm 1988, hiện đang công tác tại TP.Vinh (Nghệ An). Xin được giới thiệu tới các bạn những tấm ảnh kỷ niệm của chú tại Trường Sa

Đoàn M31 hành quân đi xây đảo ở Trường Sa năm 1988 – Ảnh tư liệu
Làm móng xây nhà trên đảo Núi Le, Trường Sa năm 1988 – Ảnh tư liệu

Công binh tập kết đá xây nhà cấp 1 trên đảo Len Đao, tháng 5-1989 – Ảnh do Bảo tàng Hải quân cung cấp
Công binh M31 xây kè chắn sóng ở đảo Song Tử Tây tháng 5-2008 – Ảnh: E131 cung cấp
Chuyển vật liệu cho công trình kè chắn sóng ở đảo Song Tử Tây năm 2008 Ảnh: E131 cung cấp
Xây mới nhà cấp 1 trên đảo Tiên Nữ, tháng 3-1988 – Ảnh: Phạm Văn Minh
Công binh vận chuyển vật liệu xây dựng nhà trên đảo Tiên Nữ năm 1989 – Ảnh do Bảo tàng

 

“Tổ quốc không có nơi xa” (*)

Tập truyện ký của nhà báo Lưu Đình Triều đến tay bạn đọc vào những tháng ngày đặc biệt, khi hằng ngày hằng giờ những thông tin về biển đảo của Tổ quốc luôn được mọi người dân hết sức quan tâm.

Bởi thế, dù phần đầu của tập sách tập hợp các bài viết về những vùng biển đảo, biên giới của Tổ quốc từ cách đây gần 20 năm (Trường Sa – quần đảo bão tố; Ấm lòng, tín hiệu gửi Trường Sa, Hà Giang: trong – ngoài tầm pháo giặc; Pháo đài Trà Cổ; Côn Đảo, năm tháng đời người…), người đọc vẫn thấy rất đỗi gần gũi.

Thời gian gần đây, đã có nhiều nhà báo trẻ được đi thực tế ở Trường Sa và đã có rất nhiều bài viết về cuộc sống lính đảo. Cùng chung thông điệp: cuộc sống lính đảo còn vô vàn thiếu thốn nhưng các anh vẫn kiên cường bám đảo để giữ vững chủ quyền đất nước, song đọc lại các bài viết của Lưu Đình Triều, mới thấy ngày ấy anh đã quan sát và ghi nhận được những chi tiết đắt đến ám ảnh: “Thấm thía nhất cái khổ cực của lính là lúc xem các anh đá banh. Từ bé đến lớn tôi chưa bao giờ thấy một trái banh lạ như vậy. Nó được khâu vá chằng chịt. Ở đảo sắt còn bị tàn phá nói gì đến những quả banh… Song vẫn chưa thấm gì so với hụt hẫng về tinh thần”. Và cái thiếu thốn về tinh thần ấy – trong đó thiếu nhất là những mối quan hệ bình thường của xã hội – thể hiện trong một câu chuyện thật xót xa: “Thiếu tá Trần Huy Lưu trầm ngâm kể: Có lần đoàn thành phố ra thăm, lính đã cố xin bằng được tất cả quần áo của một phụ nữ tốt bụng rồi chia nhau cất giữ”. Và Lưu Đình Triều đã tự lý giải hành động ấy của những người lính bằng cái nhìn đầy cảm thông, nhân bản: “Họ ấp ủ trong hòm xiểng hay đặt dưới gối để làm gì, nếu không là giữ lấy một mùi hương? Mẹ, vợ, chị, em, người yêu – tất cả đều mù mịt nơi xa.

Có chăng chỉ là hình ảnh trong mơ, nên “tặng phẩm” trên vẫn là cái gì rất thực và vô cùng quý giá…”. Khó khăn là thế, nhưng một người lính “đen nhẻm” vẫn cười vô tư, và câu nói “vô tư” của anh mà Lưu Đình Triều đã ghi lại khiến người đọc chứa chan xúc động: “Đảo của mình thì xa gần gì cũng phải giữ chứ. Chằng lẽ nơi xa thì không là Tổ quốc?”.

Cứ thế, ở phần 2 của tập sách – Những vùng đất: con người và khoảnh khắc, các bài viết của Lưu Đình Triều tiếp tục lôi cuốn người đọc bởi thái độ yêu thương chân thành của tác giả đối với những vùng đất xa xôi mà anh có dịp đặt chân đến, với những con người có số phận đặc biệt mà anh có dịp tiếp xúc. Cách viết mà độc giả đã dành nhiều thiện cảm cho Lưu Đình Triều từ tập sách đầu tay Bật một que diêm tiếp tục được phát huy, có điều ở tập sách thứ hai này, những con người mà Lưu Đình Triều đề cập, dưới cái nhìn của anh, mang tầm vóc thời cuộc.

“Tôi ngờ rằng khi viết báo, với Lưu Đình Triều là lúc anh rung lên những hồi chuông. Hồi chuông ấy ca ngợi tuổi trẻ và cũng tự nhắc nhở về mình” (Lê Minh Quốc). Một cuốn sách đáng đọc để soi lại mình trong tâm thế tuổi trẻ một thời.

Phạm Thu Nga (*) NXB Trẻ ấn hành

Bài thơ về tiểu đội xe không kính

Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.

Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái.

Không có kính, ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.

Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa mau khô thôi.

Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.

Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm.

Không có kính, rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.

1968
     Phạm Tiến Duật

Đồng đội tôi trên đảo Thuyền Chài

rong cái khắc nghiệt của thiên nhiên, hình ảnh người chiến sĩ Hải quân hiên ngang một tượng đài bất khuất nhưng cũng rất lãng mạn.

“Tổ quốc ơi! – Tiếng chúng tôi kêu lên mà mắt chúng tôi nhìn xuống – Bóng chúng tôi trùm khắp đảo Thuyền chài”. 35 năm đã trôi qua, bài thơ cũng là hơi thở của ngày hôm nay.Đồng đội tôi trên đảo Thuyền Chài
Lều bạt chung chiêng giữa nước, giữa trời
Đến một cái gai cũng không sống được
Sớm mở mắt gió lùa ngun ngút
Đêm trong lều như trôi trong mây…

Những con chim kỳ quái thấy hơi người
Mừng rỡ quá, cánh bay như bão thổi
Chỉ tiếng cánh chim quanh lều nghe đã căng nhức óc
Sủi tăm dưới chân sàn, bóng mập lượn vòng quanh…

Đảo vẫn chìm trong màu nước lam xanh
Cái giọt máu thiêng dưới ngầu ngầu bọt sóng
Tổ quốc ơi!
Tiếng chúng tôi kêu lên mà mắt chúng tôi nhìn xuống
Bóng chúng tôi trùm khắp đảo Thuyền chài…

Đảo Thuyền Chài, 1978 – Trần Đăng Khoa

Theo DÂN TRÍ

Mỗi mùa hoa đỏ về. Hoa như mưa rơi rơi…

Bài thơ Thời hoa đỏ của Nhà thơ Thanh Tùng được viết vào khoảng năm 1972, sau đó được Nhạc sĩ Nguyễn Đình Bảng phổ nhạc.

40 năm qua, bài thơ và sau này là bài hát đã khiến hàng triệu trái tim xúc động và khao khát được sống lại “thời hoa đỏ” ngày xưa. “Mỗi mùa hoa đỏ về – Hoa như mưa rơi rơi – Cánh mỏng manh tan tác đỏ tươi – Như máu ứa một thời trai trẻ”…

Dưới màu hoa như lửa cháy khát khao
Anh nắm tay em bước dọc con đường vắng
Chỉ có tiếng ve sôi chẳng cho trưa hè yên tĩnh
Chẳng chịu cho lòng ta yên
Anh mải mê về một màu mây xa
Về cánh buồm bay qua ô cửa nhỏ
Về cái vẻ thần kỳ của ngày xưa
Em hát một câu thơ cũ
Cái say mê một thời thiếu nữ
Mỗi mùa hoa đỏ về
Hoa như mưa rơi rơi
Cánh mỏng manh tan tác đỏ tươi
Như máu ứa một thời trai trẻ
Hoa như mưa rơi rơi
Như tháng ngày xưa ta dại khờ
Ta nhìn sâu vào mắt nhau
Mà thấy lòng đau xót
Trong câu thơ của em
Anh không có mặt
Câu thơ hát về một thời yêu đương tha thiết
Anh đâu buồn mà chỉ tiếc
Em không đi hết những ngày đắm say
Hoa cứ rơi ồn ào như tuổi trẻ
Không cho ai có thể lạnh tanh
Hoa đặt vào lòng chúng ta một vệt đỏ
Như vết xước của trái tim
Sau bài hát rồi em lặng im
Cái lặng im rực màu hoa đỏ
Anh biết mình vô nghĩa đi bên em
Sau bài hát rồi em như thể
Em của thời hoa đỏ ngày xưa
Sau bài hát rồi anh cũng thế
Anh của thời trai trẻ ngày xưa.

Thanh Tùng

Cáo Trung Quốc gửi chân?

Chuyện kể rằng, có một con cáo, trong đêm đông lạnh giá đến xin sống nhờ ở chuồng gà! Gà thừa biết cáo quá nguy hiểm nên không cho vào, con cáo năn nỉ: “Ôi các bạn gà ơi, tôi mệt mỏi lắm rồi, đâu còn sức mà làm gì các bạn, tôi lạnh quá, hãy cho tôi gửi chân vào thôi cho đỡ lạnh! Gà bàn bạc và thấy cái chân thì chả vấn đề gì nên hé cửa cho cáo bỏ chân vào. Lát sau, cáo xin cho nốt chân kia vào nữa, gà thấy cáo hiền lành, xin xỏ tử tế nên đồng ý. Dần dần, cáo xin được “cho vào” thêm một ít, cuối cùng thì, cả đàn gà bị thịt hết!

Lâu nay, các nước trong khu vực Đông Nam Á và cả thế giới đều biết đến con bài “cáo gửi chân” của Trung Quốc. Những từ cửa miệng ngon ngọt, mỹ miều như “hòa bình, hữu nghị, cùng khai thác…” mà Trung Quốc thường rêu rao thực chất là một sự ngụy trang, dụ dỗ, đánh lừa các nước để Trung Quốc từng bước hiện thực hóa cái “lưỡi bò” phi nghĩa, đầy dã tâm của mình. Với chiến lược ba bước lấn tới “tranh chấp – gác tranh chấp cùng khai thác – chiếm luôn”. Trung Quốc đã và đang gây ra rất nhiều cuộc tranh chấp chủ quyền biển đảo với Việt Nam, Nhật Bản, Philippines, Malaysia, Brunei… Điểm chung là Trung Quốc thường nhắm đến những vùng biển có nhiều nguồn lợi để xâm chiếm, trở thành kẻ xâm lược ngoại bang, vào tận ngõ của người khác để ăn cướp. Thế nên, không có gì ngạc nhiên khi chúng ta thấy càng nhiều vùng biển vốn bình yên nhưng bất ngờ bị Trung Quốc gây chiến. Khi tranh chấp kéo dài, cậy thế nước lớn, quân sự mạnh, Trung Quốc chèn ép các nước phải gác tranh chấp cùng khai thác. Cuối cùng, cáo già lộ rõ bản chất: quyết định chiếm luôn.

Cáo Trung Quốc gửi chân?

Quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam từ lâu đã nằm trong tầm ngắm, trở thành miếng mồi béo bở đối với giới cầm quyền Trung Quốc. Họ đã không từ bất cứ thủ đoạn nào dù là đớn hèn nhất để thực hiện dã tâm của mình. Đối mặt với con cáo già nguy hiểm và độc ác như Trung Quốc thì hành trình đi tìm lại chủ quyền và giữ vững toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam quả là gian nan và vất vả vô cùng. Vì người Việt xưa nay vốn chuộng hòa bình nên cái khó là chúng ta không sử dụng vũ lực, súng đạn như cái cách hành xử giang hồ của Trung Quốc, ngang nhiên xả súng bắn cháy tàu cá của ngư dân Việt mà cần phải đấu trí với họ.

Mới đây, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã có chuyến công du đến Trung Quốc. Bước đầu hai nước Việt – Trung đã đạt được những thỏa thuận đáng kể. Việc ký kết 10 văn kiện hợp tác nhiều mặt, trong đó có mở rộng diện tích thỏa thuận trên Vịnh Bắc Bộ về thăm dò tìm kiếm các mỏ dầu khí là một tín hiệu đáng ghi nhận, đáp lại việc trước đây đại diện nhóm diều hâu Trung Quốc kêu gọi dùng biện pháp quân sự, khẳng định lãnh đạo hai nước mong muốn duy trì hòa bình trên khu vực này. Ngoài ra, hai bên cũng thỏa thuận thiết lập đường dây nóng để giải quyết những va chạm trong hoạt động nghề cá trên biển Đông… Những kết quả bước đầu này mặc dù vẫn chưa thấm vào đâu nhưng cũng đã cho thấy nỗ lực của lãnh đạo nước ta trong việc giảm bớt căng thẳng trên khu vực biển Đông. Như Chủ tịch nước Trương Tấn Sang khẳng định “việc giải quyết vấn đề biển Đông là hết sức hệ trọng vì liên quan đến chủ quyền lãnh thổ, đến tâm tư tình cảm thiêng liêng của dân tộc và người dân”. Ngay trong buổi chiều 22/6, khi Chủ tịch nước Trương Tấn Sang kết thúc chuyến thăm Trung Quốc, hai tàu chiến hiện đại nhất của Việt Nam đã lên đường thực hiện những cuộc tuần tra chung với tàu hải quân Trung Quốc, điều đó cho thấy Việt – Trung đang có dần thắt chặt mối quan hệ sâu sắc hơn.

Chủ tịch Tập Cận Bình đón Chủ tịch Trương Tấn Sang tại Đại lễ đường Nhân dân

Tuy nhiên, trong khi những ký kết giữa hai nước vẫn còn chưa ráo mực thì Trung Quốc liền cho phát hành cuốn sách giới thiệu toàn cảnh về cái gọi là “thành phố Tam Sa”, đơn vị hành chính phi pháp mà nước này lập ra cách đây một năm. Bất chấp sự phản đối mạnh mẽ của các nước láng giềng, trong đó có Việt Nam. Cuốn sách bao gồm 5 bản đồ chi tiết minh họa cho “thành phố”, cùng các quần đảo mà Trung Quốc tự gán vào phạm vi quản lý của “Tam Sa”, bao gồm cả quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Qua đây, càng cho thấy, giang sơn dễ đổi, bản tính khó dời, thực chất cáo già Trung Quốc vẫn đang ngấm ngầm gửi chân, từng bước ăn cướp chủ quyền biển Đảo của Việt Nam. Hổ thẹn thay cho cái gọi là “nước lớn”, hễ buông bút là quên luôn mình đã ký cái gì, hứa xong quên luôn lời đã hứa, nói một đường làm một nẻo… thử hỏi ai còn tin vào cái giọng điệu “miệng nam mô bụng bồ dao găm” của Trung Quốc.

Hai bên đã ký kết 10 văn kiện hợp tác quan trọng về nhiều lĩnh vực như đánh bắt cá, quốc phòng, thương mại, thăm dò dầu khí…

Trung Quốc nên nhớ rằng, người Việt Nam vốn không có đầu óc xâm lăng trong máu nhưng cũng không bao giờ lùi bước trước bất kỳ thách thức nào. Những phản ứng và thái độ dứt khoát của Việt Nam cho thấy, cáo Trung Quốc dù mưu mô đến đâu cũng không dễ mà lừa đảo để “gửi chân” vào các vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam.

Thảo Nguyên

Việt Nam không bao giờ có sự kiện “Thiên An Môn” thưa các vị Rân Trủ

Thấy mấy chú blog lề trái có viết rằng liệu ở Việt Nam có Thiên An Môn hay không? Nên tôi xin viết bài này với tư cách là một bloger của cộng đồng mạng để trả lời cho cái câu hỏi mà các vị đang hỏi hay là đang mang tính kích động nhân dân chống chính quyền.

Theo tôi biết thì việc sự kiện Thiên An Môn xảy ra là một sự kiện đau lòng đối với người dân Trung Quốc. Tuy nhiên theo tôi nghĩ thì đây là một sự kiện của nước ngoài mà chẳng liên quan gì chúng ta cả bởi vì chúng ta khác. Cái địa danh Quảng trường Thiên An Môn cũng không có ở Việt Nam nên sẽ không bao giờ có. Ở Việt Nam sẽ chẳng để cho các vị khủng bố hay “dân chủ” lừa bịp nhân dân tạo nên những thứ ồn ào náo nhiệt như vậy đâu. Cái nguyên nhân của cái vụ Thiên An Môn chủ yếu là do sự chia rẽ lợi ích trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cao của Đảng Cộng sản Trung Quốc nên mới như vậy.

Nhưng đi liền với đó là do một số tên mang danh dân chủ giấu mặt được phương Tây điều khiển kích động gây nên. Nếu nói đến cái tội to nhất và nguyên nhân sâu xa không phải chỉ do chính quyền mà do có bàn tay của phương Tây. Nếu không có bàn tay phương Tây thì đã không có sự kích động mãnh liệt như vậy. Còn giải pháp mà giới lãnh đạo Trung Quốc đưa ra lúc bấy giờ chỉ là một giải pháp cấp bách tình thế mà thôi. Nhưng cũng may thay là Trung Quốc đã khôn hồn nhận ra những ngón đòn của phương Tây sau bài học đó.

Còn ở Việt Nam thì vấn đề lại khác rất nhiều. Nhà nước Việt Nam không để cho nhân dân có những sự phẫn nộ để gây nên những điều như vậy. Tôi không nói là mọi chính sách đều có sự hoàn hảo. Mà chỉ nói là Nhà nươc luôn biết ý thức được thời cuộc để điều hành đất nước sao cho phù hợp với lợi ích của đông đảo quần chúng nhân dân cũng như đem lại những lợi ích kinh tế cho đất nước, duy trì sự lớn mạnh của chế độ. Thiên An Môn là biểu tượng cho sự mâu thuẫn của chính quyền trong chính sách cộng hưởng với bàn tay điều khiển của nước ngoài.

Nếu xét dưới một góc cạnh nào đấy thì chúng ta có thể nhìn thấy sự tàn nhẫn thật sự của chính quyền Trung Quốc. Tôi không nghĩ như các vị “dân chủ” có thể đánh đồng mọi thứ như nhau khi nó có hình thức giống nhau. Việt Nam và Trung Quốc cùng chế độ chính trị nhưng không bao giờ Việt Nam giống Trung Quốc. Bản chất dân tộc Việt Nam không thâm hiểm và tham tàn như Trung Quốcnên sẽ không bao giờ có sự giống nhau trong giải quyết một vấn đề nào đó. Người Việt Nam coi trọng cách giải quyết vấn đề một cách ôn hòa “đóng cửa bảo nhau chứ không bao giờ cần dùng đến vũ lực. Nhân dân Việt Nam cũng có sự suy nghĩ khác, họ vấn đặt lợi ích của đất nước lên trên hết chứ không thể theo kiểu “tham thì thâm” như của một bộ phận người Trung Quốc. Người dân chúng ta cũng không dại gì mà đi nghe mấy tên phản động bán nước nó kích động cho để rồi mà chống chính quyền.

Thực tế thống qua các vụ gây rối do lực lượng dân chủ giấu mặt kích động nhân dân như vụ Tiên Lãng, Văn Giang…đã cho thấy. Chính quyền chỉ phân tích đúng sai cho nhân dân và sử dụng các biện pháp vận động quần chúng. Và sau đó nếu có sai sẽ sửa lỗi trước nhân dân. Tuyệt đối không có những mâu thuẫn sâu sắc mà chỉ là những hiểu lầm nhất thời mà thôi. Nói về lực lượng Quân đội nhân dân Việt Nam là lực lượng rất được nhân dân yêu quý và trung thành với Tổ Quốc. Thường được ví như “cá với nước”. Vì thế đừng hòng có một thế lực nào có thể chia rẽ tình quân và dân chứ đừng nói gì đến chuyện quân đội chúng ta đàn áp nhân dân.

Vì thế ở Việt Nam không bao giờ có sự kiện “Thiên An Môn” đâu các vị “dân chủ” ạ. Đừng có ngồi đấy mà tưởng tưởng bay bổng nữa.