Vô danh trận mạc (tiếp 2)

Hơn một năm nữa qua đi.

1975, trước Tết một tuần lễ, tiểu đội chúng tôi được lệnh về hội quân. Lâu rồi chúng tôi mới tập trung toàn tiểu đoàn về cụm gần nhau tới vậy. Tôi gặp lại nhiều bạn hữu. Lu cũng tỏ vẻ mừng rỡ. Gặp bất kỳ ai, nó cũng hít ngửi, chắc để nhận ra mùi lính. Nó không biết rằng, chúng tôi sắp bước vào một trận đánh lớn. Đánh nhau, điều ấy cũng bình thường nhưng không thể vui vẻ nhảy cẫng lên suốt ngày như nó. Chúng tôi lau lại súng, xóc lại lê và mài dao găm. Lĩnh thêm lựu đạn và đạn. Anh Hạnh vác về khẩu B41 còn nguyên lớp mỡ và những viên đạn dài, hình bắp chuối, màu quân dụng.

Sớm ra, có lệnh giết tất cả thú vật, không trừ một ngoại lệ. “Đây là trận đánh lớn. Có tính quyết định như tổng tấn công. Tuyệt đối giữ bí mật khi áp sát địch”.  Hơn chục con gà, một con lợn của tiểu đội hậu cần, nhanh chóng được đưa xuống anh nuôi để lập tức xả thịt, băm nhỏ, trộn với muối làm lương khô cho chiến dịch. Bọn thèm thịt chó mừng rú. Sớm dậy, chưa tỏ mặt người, tay anh nuôi đã tới tiểu đội tôi tóm lấy con Lu khi nó chưa hiểu ra việc gì. Gã buộc vào cổ Lu một sợi dây rừng và định dắt nó đi. Không! Lu giằng ra, lùi bước và nhe bộ răng trắng ởn hăm dọa. Tất nhiên anh Hạnh không thể can thiệp. Mệnh lệnh mà. Anh Hạnh bảo thằng Tâm đưa nó xuống bếp. Sao lại là tôi? Tâm nói. Nó đưa mắt nhìn chúng tôi hoang mang. Thôi cậu đi đi. Tôi quay mặt đi, nói. Tâm và gã anh nuôi xuống bếp, con Lu lững thững theo sau họ. Đi một đoạn, Lu bỗng dừng chân và ngoái đầu nhìn lại.  Cái nhìn đầy trách móc như muốn nói với tôi: “Đồ phản bạn!”

Tôi lên võng, tung tấm đắp trùm kín đầu. Hình ảnh Lu trong bóng tối hiện lên….Tôi bật dậy và chạy đi. Tới đầu lán anh nuôi, gặp Tâm quay lại. Lu bị giết chưa? Tôi hỏi. “Chưa! Tao sợ nhìn nó lắm!”.  Theo tao. Tôi lại bảo. Chúng tôi vòng ra sau hầm bếp. Lu đang bị cột vào một gốc cây ven suối. Dưới cổ nó một cái nồi nhỏ để sẵn. Lu ngửng lên nhìn gã anh nuôi đang giơ cao cái chầy chuẩn bị giáng xuống đầu. Thế mà nó vẫn vẫy đuôi như mừng rỡ. Mõm hếch lên liếm láp cái cổ tay của kẻ sắp giết nó. Tôi nhói đau và bỗng lóe lên ý nghĩ khi nhìn thấy chai xăng nhỏ mồi bếp. Tôi ném thẳng chai xăng vào lò Hoàng Cầm. Tích tắc, có tiếng nổ phát ra và lửa khói dâng cao hai mét, trùm kín cả nồi quân dụng đầy nước đang sôi ùng ục. Cháy, cháy. Tâm la lên. Tất nhiên là ba anh nuôi bỏ Lu nhao vào. Chỉ chờ có vậy, tôi vòng ra sau lán, rút nhanh dao găm chém đứt phăng sợi dây rừng đã trói buộc Lu. Chạy! Chạy ngay! Tôi vỗ vào mông Lu hạ lệnh, khi cái mũi ẩm ướt quen thuộc của nó áp nhanh vào má tôi. Chần chừ một lát, ngước mắt nhìn tôi lần cuối, Lu phóng đi.

Chiều tối hôm ấy xe binh trạm tới. Mưa tầm tã. Những trận mưa cuối của mùa mưa, nặng hạt lắm. Đây là lần đầu cánh bộ binh chúng tôi được hành quân cơ giới. Người ta bảo, trận này sẽ diễn ra trong thành phố lớn nhất nhì cao nguyên. Nơi đó cách đây cả trăm cây số. Hành quân gấp. Xe nổ máy tiến vào đêm đen. Tôi kịp phát hiện ra bóng Lu từ đâu nhảy ra và chạy theo xe. Tôi nhổm người lên. Cả Hạnh và Hoàng cũng nhổm lên. Bóng nó chập chờn cố phi theo, đôi lúc nước táp tóe trắng ra hai bên chân nó trong ánh chớp sấm nhì nhoằng. Thôi, hãy về với gia đình của cô gái, thôi hãy trở lại rừng…Tôi đứng nhìn cho tới khi bóng nó mất hẳn trong đêm tối.

Chúng tôi được ô-tô mặt trận thả xuống cách thành phố Buôn Mê Thuột vài chục cây. Cứ ngậm tăm mà đi. Mũi chúng tôi chọc thẳng vào sân bay, nơi có những toán quân thiện chiến của tướng Phú trấn giữ. Tôi không rõ các cánh quân khác đã tràn ngập thành phố thế nào, nhưng đại đội tôi để chiếm được già nửa sân bay đã tổn thất khá nhiều chiến sĩ vì trận đánh dằng dai hơn ngày trời với toán lính rằn ri tại đây. Địch từ các hầm ngầm, với sự yểm trợ của nhiều toán máy bay A37 từ miền Trung bay lên yểm trợ, trồi lên bất ngờ và đánh trả quyết liệt khi trời hửng sáng. Tiểu đội hai người hy sinh. Anh Hạnh cũng bị thương ở chân và tôi dìu anh vào một khu nhà có bức tường thấp ngăn với đoạn cuối đường băng. Chúng tôi không ngờ có tốp lính đối phương đã mật kích sau lưng qua bức tường ấy. Hai tên vừa chạm đất anh Hạnh và tôi kịp lia đạn tiêu diệt thì hai đứa khác từ đâu bổ xuống. Gần quá, tôi phất một tên, dùng nòng súng gạt phắt lưỡi lê của tên thứ hai và tung báng súng. Cú đánh trượt, người lính cao to hơn tôi đã lao cả người đẩy tôi ngã ngửa xuống mặt đất. Chớp mắt, tôi thoáng thấy ánh sáng của mũi lê AR 15 vung lên. Chắc chắn sau tích tắc, tôi sẽ biến thành khối thịt phun bọt máu, đổ sập xuống đất. Không, trời cho tôi sống. Huỵch! Như có phép thần, hay tưởng tôi đang mơ, bóng Lu từ đâu vụt lao tới húc thẳng vào đối thủ, đẩy bật hắn bằng sức mạnh của gia tốc loài chó. Trời ơi! Lu!

Vô danh trận mạc (tiếp 1)

Còn câu chuyện của mùa mưa năm sau, đơn giản là thế này. Giữa mùa mưa, ngô bắt đầu kết sữa trên rẫy, tiểu đoàn đột ngột điều người đi bổ sung quân số cho một đại đội đang chống lấn chiếm ở vùng giáp ranh. Vì cả đại đội trông vào rẫy để chống đói nên phải để người ở lại. Anh Hạnh bảo, cậu ở lại với Lu nhé. Trông rẫy tất nhiên không có gì nguy hiểm như đi đánh nhau. Nhưng sẽ cô độc, buồn. Tôi muốn đi với anh em. Hạnh vỗ vào vai tôi nói, cậu với Lu hợp nhau, bảo được nó. Thôi ở lại! Đấy là mệnh lệnh! Tôi và Lu tiễn anh em ra Bến Rừng, sang sông.

Bởi còn lại một mình, tôi phải ngủ ngay tại chòi canh rẫy. Ăn ngủ tại đó, rất tiện cho công việc, nhưng lại xa nước. Thực chẳng may cho tôi. Tiểu đội vừa đi được ba ngày thì tôi lăn ra sốt rét. Sốt rét ở đời lính Trường Sơn là lẽ thường. Nhưng lần đó, không hiểu sao đã uống tới hai liều Phòng Ba (1) mà bệnh không thuyên giảm. Tôi lên cơn từng chập, dày hơn mọi lần và nằm liệt trên đệm cỏ ở cái lán thổ tả ấy. Ăn uống thì giản đơn. Vì có ăn được cơm đâu nữa. Cũng chẳng thèm ăn, chỉ khát ngọt. Cố lần ra rẫy, vặt ngay ngô non, rau cải xanh hay bí ngô non mà nhai tạm. Lu cũng đói đấy, nhưng tôi không thể nấu cho nó. Nó không sốt, nó khoẻ nên chịu được. Hay nhịn đói chắc là sở trường của loài thú. Tới ngày thứ ba, đã cạn sạch hai ống bương dự trữ nước. Tôi rất khát. Đêm, cơn sốt làm tôi thiếp đi và mơ rất hãi hùng. Tôi thấy mẹ. Bà vuốt ve tôi và khóc. Tỉnh giấc, trăng vằng vặc chiếu tỏ mọi vật và nhìn lên, đâu cũng thấy những áng mây sáng màu vàng. Một cánh tay tôi đã rơi khỏi sạp, thõng xuống đất. Trong cơn mơ, tôi tự cào xé hết cái áo lính đã tướp rách và đầm đìa mồ hôi. Không phải mẹ đâu! Tôi ý thức được điều gì đang xảy ra. Lu đứng cạnh. Đôi mắt nó xanh mơ trong ánh trăng, đăm đăm lo lắng nhìn tôi và cu cậu chậm rãi liếm  mồ hôi đang vã ra trên mặt, trên tay, trên ngực tôi. Tôi vật vã. Đau đầu vô cùng. Như thấu hiểu hết, Lu dụi mãi cái mõm ướt và nóng vào cổ, ẩy đầu tôi cao lên trên cái gối nhồi cỏ. Tôi nghĩ tới cái chết.

Rồi đêm qua đi. Cứ nằm đây không chết vì sốt cũng chết vì khát. Tôi cố cầm gậy, ra rẫy bẻ vài bắp non hít nước và kéo lê bình tông xuống tìm con suối nhỏ chân rừng. Thực không may, tới đoạn dốc nơi bìa rừng tôi bị ngã và cứ thế lăn đi, rơi xuống một cái khe cạn, đầu quật mạnh vào một thân cây và bất tỉnh. Không biết tôi đã nằm tại đó bao nhiêu lâu. Mỗi khi lơ mơ mở mắt, vẫn là Lu bên cạnh. Nó đã cắn rách cả ống quần mà không sao kéo tôi thoát khỏi cái khe nhỏ ấy. Tôi nghĩ, chắc là chết. Nghĩ đến chết, lại chết hiu quạnh, tôi ứa nước mắt. Khi ấy Lu chạy cuống quanh tôi. Nó đứng ngẩn ra một lát và bất ngờ nghển cổ tru dài. Lần đầu tiên trong đời tôi nghe một con chó nhà tru như chó sói. Tôi đã từng đọc sách, thấy nói, chó sói tru vào những đêm trăng suông. Tru gọi bạn tình. Bấy giờ trăng đã lặn. Lu gọi ai? Tôi muốn nói với Lu lắm mà không sao nói được. Lu cũng muốn nói với tôi thì phải. Nhìn vào mắt nó, tôi cảm thấy điều ấy và biết, có những tình cảm không thể cất lên lời. Mà cái tình, cũng không nên nói thành lời. Ở thời khắc hãi hùng ấy, thời khắc ý thức mình sẽ chết, con người ta chợt không thấy sợ nữa. Tôi muốn khép mắt lại. Lu bỗng phóng vọt đi, để mình tôi bắt đầu thiêm thiếp, chìm tiếp vào  cái chết chậm. Tôi thấy mình bay khỏi xác. Tôi dang tay vượt trên những tàn rừng, nhằm hướng Bắc mà bay, bay mãi. Đột nhiên tôi thấy mình bị lắc kỳ lạ. Cảm giác ấy về sau chưa bao giờ lặp lại, chỉ tới sau này, khi ra nước ngoài trên chuyến bay lần đầu, tôi đã gặp lại cảm giác này lúc máy bay nhao rơi vào túi khí loãng… Tôi tỉnh. Bừng mắt. Thì ra tôi đang được một tốp người đưa qua một cái vực rất sâu bằng dây rừng. Họ thả tôi vút qua một cái vực. Ba người Thượng thì phải. Sau này, tôi cũng nhớ ra rằng, chúng tôi đã từng đi tuần tra tới đây. Đó là dải phân cách tự nhiên giữa hai ngọn núi mà người bình thường rất khó vượt qua. Sang tới bên kia, họ cho tôi uống nước đựng trong một ống vầu. Đấy là thứ nước ngọt nhất trên đời tôi chưa từng được uống. Đi tới đâu, nước làm thể xác tôi mát dịu.

Đây là một gia đình người Thượng sống ở mé trái núi. Họ có ba người. Ông già, một người vợ và cô con gái mười bảy tuổi sống trong một cái nhà sàn nép dưới tàn cây, sâu vào nữa là hang nhỏ. Không, đúng hơn là còn con chó nữa, có cái tên dân tộc rất khó phát âm. Như vậy, Lu đã tới đây tìm người cứu tôi. Thì ra cu cậu trước đây đã tới đây mà tôi không hề biết. Chỉ có chó mới có thể vượt qua được khe ấy mà tới tìm đồng loại của nó. Con chó cái đã chửa, bụng căng ra phơi nhiều núm vú và chúng liếm láp nhau tự nhiên trước tôi. Tôi được uống thứ thuốc lá đắng muốn nôn. Tôi uống nước quả từ tay cô gái con chủ nhà. Được ăn thứ củ, mà khi nấu lên màu trắng ngà như sữa, trộn chút mật ong. Những bắp ngô nếp giã nhừ nấu với thịt. Tôi không biết tiếng họ và họ cũng không hề biết tiếng Kinh. Cũng không rõ, sao họ sống lẻ loi như vậy; vì người Thượng hay người Lá Vàng ít khi sống như thế. Có một bữa, máy bay địch sát qua ngọn núi. Thấy người đàn ông kéo vợ từ trảng rừng trống cảnh giác ép nhanh vào bìa đá. Còn cô gái thì chỉ lên trời và làm động tác chùi mắt. Đấy là toàn bộ những gì tôi biết về họ. Lại nói tới Lu. Nó và bạn nó được ăn uống rất sang. Người đàn ông tóc dài tới vai, đen cháy, săn chắc như gốc cây khoop đã qua lần đốt rẫy, đứng bên chái nhà xẻ thịt từ tảng thịt sấy, treo lủng lẳng một dãy, hào phóng quẳng cho hai con thú. Chỉ dăm ngày sau đó, khi đã khỏe, tôi đã học được cách cài bẫy của ông rất đơn giản mà hiệu quả, nên hiểu vì sao trong nhà nhiều thịt sấy khô dự trữ như vậy. Ông chỉ cho tôi cách chém lồ ô, để lại cật sắc như nước, nhọn hoắt. Lu và con bạn nó giúp chúng tôi tìm thấy vệt đi của những con thú khi chúng cọ thân lấm bùn, để lại dấu vào các gốc cây trong rừng. Chọn quãng hẹp mà bầy thú buộc phải qua đó, cắm dày đặc lồ ô sắc nhọn, đón tầm cao ngang ức con nai.

Sau rừng chông ấy năm sáu mét, căng một sợi dây rừng thực nhỏ rồi ngụy trang. Bầy nai thế nào cũng có con chạm chân vào sợi dây đó và cái lẫy nhỏ tung ra để lập tức hòn đá bị treo rơi nhanh xuống đất, phát ra tiếng động lạ. Cả bầy nai bị bất ngờ bởi tiếng động, sẽ hoảng hồn, phi vọt chạy trốn. Thể nào cũng có con rơi vào rừng chông lồ ô cắm chờ sẵn. Những ngọn lồ ô sắc, nhọn hoắt, dài tới ba mét cắm nghiêng, sẽ xuyên ngập ức nai. Tôi còn được đi lấy trứng kiến với mẹ con cô gái. Chui vào một tàn cây rậm rạp, thấp, treo lủng lẳng những chùm the be chín vàng. Tại quãng cây rừng như vậy có nhiều tổ kiến kết bằng lá cây, xộp, to như chõ xôi. Chém vào tổ kiến như bổ dưa rồi rũ trứng xuống lá chuối. Trứng kiến rất thơm và bùi khi nướng trong bọc lá chuối. Sau này, tôi được biết thêm, rằng trứng kiến, mối và ong non có nhiều chất vi lượng và vitamin quý hiếm mà loài người khó tạo nên. Thảo nào, tôi lại sức rất nhanh. Thảo nào, môi cô gái hồng thế? Cổ tay em trắng và tròn thế! Sau chuyện này, tôi đánh giá Lu rất cao. Nó biết nơi có thức ăn nhiều hơn. Tại đó lại có một bạn chó, để nó thỏa mãn sự khát dục, vậy mà nó vẫn quay về với chúng tôi. Và nhờ có nó, tôi được cứu sống.

Vô danh trận mạc – truyện ngắn của Nguyễn Văn Thọ

Số phận đã sắp đặt cho chú chó Lu gặp anh lính trẻ để rồi thử thách họ trong những hoàn cảnh đặc biệt, trớ trêu của thời chiến. Lu đã nhiều lần cứu sống anh nhưng cũng để lại trong lòng anh một vết thương khó lành khi nó đã không thể cùng có mặt với anh trong ngày chiến thắng.

Đó là Lu. Tôi nhặt nó trong một bản nhỏ cháy toang hoang, nham nhở, còn nguyên mùi khét vì đạn cối giã xuống từ chiếc C130 bay tuần đêm. Lúc sắp qua bản, tôi chợt nghe thấy tiếng rít yếu ớt vọng lên từ lòng đất, như  là những âm thanh mơ hồ hay gặp trong chiến tranh. Không phải! Khi tôi đá gạt cành cây bị đạn chém rụng xuống mặt đất, lộ ra lòng hố tối thẳm, một đôi mắt đen, lấp láy.

Hoảng hốt vài giây, nắm chặt hơn báng súng, tôi nhìn thấy một xác chết ôm đôi mắt kia trong lòng. Nhìn kỹ nữa, đứa trẻ chừng tám chín tuổi, đầu vỡ, gáy dựa vào thành hố, mắt trắng hoang mang, trân trân nhìn ngược lên trời. Máu đã khô, đen thành vệt chảy xuống đầy hai bàn tay đang ôm chặt con chó nhỏ. Để đưa nó lên, tôi gần như phải bẻ ngón tay của người đã che chắn cho nó.

Chúng tôi gọi tên nó là Lu. Đừng nghĩ đó là một tên Tây. Nó cũng như là Vện, là Lêu, là Êu Êu. Còn khi gọi Lu Lu thì có vẻ Tây rồi! Không phải tụi tôi muốn vậy. Ban đầu gọi một từ Lu gọn lỏn, nó chưa nhận ra là gọi nó. Chó mà! Thế là phải gọi hai lần từ Lu, quen miệng thành Lu Lu. Vậy là từ ngày đó, con chó sống sót của cái bản đã bị hủy diệt ấy, được coi là thành viên thứ bảy trong tiểu đội Hà Nội. Đấy là tôi muốn nói tới sự chia chác khẩu phần ăn của sáu người cho nó, chứ yếu ớt, còi hoi như nó thì làm được trò trống gì để đỡ đần cho thằng lính! Chúng tôi nghiền nhỏ cơm hoà nước thành thứ cháo hạng nhất cho nó liếm. Tóm được dăm cá suối nhỏ về kho với me rừng, tôi lén tiểu đội, chan cho nó ít nước hiếm hoi. Giá mà có sữa, trứng bột như hồi chuẩn bị đi B dài nhỉ? Thằng Bảo dân Hàng Thiếc thốt ra. Mơ ước thần tiên! Hão huyền! Tôi mắng. Quả thực vậy, muối cũng thiếu, thèm mặn! Mỳ chính và muối được gìn giữ như của báu. Đôi khi nhón trộm  vài hột, thả vào lưỡi. Sung sướng quá! Nói gì tới đường sữa cho chó! Thế mà nó qua được. Ba ngày đã nhởn nhơ quanh lán. Năm ngày nhảy tưng tưng khi chúng tôi từ rẫy hay đi tuần tra về. Nó bắt đầu có da có thịt sau hai ba tuần gì đó. Lông không xác xơ nữa, mỡ dần, rõ sắc vàng điểm chấm đen và, nhanh nhẹn ra hồn chó. Cứ thế, theo ngày tháng nó biết thêm ra. Chúng tôi cũng dần quen hơi bén tiếng với nó. Những người lính sống âm thầm trong rừng, xa dân, xa bản, một con chó cũng làm cho cái lán vui vui. Một tháng sau, lần đầu tiên nghe nó sủa. Nhách… nhách… nhách…Tiếng kêu của chó, tiếng của sinh linh suýt chết, dẫu còn mong manh va vào núi đá, vọng trượt trên những tàn cây gợi lên điều gì rất xa xôi trong tôi.

Đám lính Hà Nội, tiểu đội trưởng Hạnh chai sạn, đánh nhau từ Bắc vào Nam; từ tôi, thằng Hoàng, thằng Lưu, Bảo…những cựu chiến binh dầy dạn bom đạn, biết thế nào là Huế Mậu Thân đẫm máu hay chiến dịch Lam Sơn 719 của địch, tới thằng Tâm, thằng Khanh (rất hay bốc phét) vừa nhập ngũ… Mỗi người nhìn nhận, đùa giỡn, ứng xử với nó một khác. Ví như thằng Tâm, cũng hay cho nó ăn đấy, nhưng mỗi lần cho ăn thường vỗ vỗ vào đầu nó và nói như hát: “Nhanh lên chứ, vội vàng lên tí nữa…Sáu bát, sáu bát!”. Hê hê, tôi biết tỏng cái thứ thân thiện kiểu ấy. Nó là thằng gầy nhẳng mà háu đói nhất. Với anh Hạnh thì lại khác. Anh có thể ngồi yên bên nó, gãi đầu và xoa lưng, cù vào ức nó cả giờ. Ngược lại, khi tiểu đội bận, đi vắng cả, nó cũng hàng giờ im lặng, ngúc ngoắc hai tai, để nghe anh kể lể gì đó. Tôi cứ đinh ninh khi ấy, anh đã nói với Lu như đã từng kể với riêng tôi, về một bà chị bốn mùa đi đội than, quẩy nước mắm, gánh củ nâu từ những chiếc thuyền có hai cánh buồm với bao nhiêu miếng vá ngoài bến Phà Đen… Tụi tôi vào lính với hoàn cảnh, nguồn gốc khác nhau. Anh Hạnh sinh ra trong một nhà nghèo. Bố mẹ mất sớm, phải ở với chị, phải đi bóc vỏ cây, ở những cái bè gỗ trôi từ mạn ngược về. Người như vậy, không thể sống vô tư như đám con cái viên chức cũ, hay con cán bộ kháng chiến. Có thể do từng trải, anh là người cần kiệm, biết nhặt nhạnh từ chút giẻ cũ lau súng tới mẩu sắn gãy ngoài nương cho nồi cơm bọn tôi thêm một lần xới. Thằng Hoàng thì trái lại với anh Hạnh. Nhà nó giàu nứt đố đổ vách. Theo lời nó kể, nhà nó toàn bán gạo mậu dịch mua gạo tám xoan về ăn. Giò lụa cắn ngập răng. Thịt gà nhả bã. Có phải vì đói mà nó bốc phét như thằng Khanh không, nhưng tôi biết, mẹ nó quen mẹ tôi, bán vải ở chợ Đồng xuân. Một bà đậm người, cổ thường đeo chuỗi ngọc xanh màu hoa lý. Hoàng rất hay trêu Lu. Đôi khi ngu xuẩn nắm cả đuôi nó kéo ngược. Lu kêu lên thảm thiết, nó giận Hoàng vài hôm. Nhưng Hoàng cũng hào phóng. Có bữa, đang cắn dở miếng thịt nhím béo lắm, thấy Lu trân trân nhìn, nó vứt ngay lên cao để Lu nhảy lên tợp lấy… Tất nhiên với tôi, Lu gần gũi nhất. Đêm lạnh, nó nhảy lên sạp, chui vào cuối chăn làm ấm hẳn đôi bàn chân tôi.

Mùa mưa cao nguyên năm ấy thực đáng sợ. Mưa cứ rơi hết ngày này tới ngày khác, phá hỏng tất cả các con đường vận chuyển. Xe từ Bắc không thể vào được tới mặt trận. Khẩu phần gạo tụt xuống, đầu mùa mưa là năm lạng, sau ba lạng và xuống hai lạng một người. Lĩnh gạo về, vừa mở dây buộc, bọ đen nhảy lên tanh tách. Đãi kỹ cho bớt bọ, mọt thì bột gạo trôi hết theo nước suối, còn trơ lại lõi gạo. Đãi không kỹ thì bát cơm đắng nghét. Sắn cũng vừa đen vừa mốc. Cũng may là khi đó chúng tôi không phải đi đánh nhau. Chúng tôi trông kho đạn của tiểu đoàn, làm rẫy và thi thoảng tuần tra trên những lối mòn ven sông, bảo vệ vòng ngoài cho căn cứ của sư đoàn. Thế là sướng lắm rồi! Còn có cái mà sột soạt, tọng cho đầy cái dạ dày luôn kẹp lép, dù làm rẫy cực nhọc lắm. Tại đó, không như hồi đánh và giữ Boloven, thú như trong chuồng, tha hồ bắn. Những cánh rừng khoop bằng phẳng trên cao nguyên chỉ sẵn cú, sóc và chuột. Còn rừng xanh có cheo và các thú khác nhưng không được nổ súng lộ căn cứ! Chỉ còn cách đặt bẫy thú, săn bắt cá. Muốn nổ súng phải đi thật xa, cả ngày đường. Bẫy thú thì bọn “cày đường nhựa” tụi tôi hoàn toàn ít kinh nghiệm. Chỉ còn cách vớ được bất kỳ con gì cũng tống vào dạ dày, kể cả loài quạ tanh và dai, bọn vẹt chỉ toàn thấy đầu. Tới mùa măng le mọc, đi tìm lỗ dúi mà đào tới cùng và truy bắt. Những khi ấy, càng lớn Lu càng đắc dụng. Nó hít thật lực, hai chân trước cào cào, như báo hiệu hướng hang của  dúi. Thèm chất tanh, đi đặt câu, nhưng chỉ trong mùa khô, khi các con suối hẹp lại, cạn đi để cá quả và trê hay cắn mồi. Muốn ăn cá lớn, phải đi xa nữa, tới con sông luôn xiết chảy. Đổi cái võng đôi Tô Châu mới, nửa cân muối mỏ, được bộ lưới bén của dân Lào dài chừng hơn hai chục mét. Tìm chỗ nước lặng, hay nơi suối gặp sông mà thả lưới. Cũng nhiều khi dùng bộc phá đánh cá. Nếu đánh, chỉ với lượng TNT rất ít, cắt ngắn dây cháy chậm sát kíp, tính sao khi nổ đủ độ sâu hai mét, cho người trên bờ chỉ nghe tiếng ục rất nhỏ, trầm và thấy nước sôi quẩn lên là lao ngay xuống vớt cá. Sông cao nguyên, đoạn nào lòng lắm đá, xiết chảy, cá mõm trâu nhiều lắm. Đánh một phát cháy nhanh, cá nổi ệch bụng, trắng phớ trôi theo nước xiết. Nhảy ào xuống, bơi theo mà nhặt. Phải nhanh tay, nhanh mắt không cá trôi mất tiêu. Phải có nghề, mồm ngậm cá, tay cầm cá và ngón chân cũng kẹp cá. Khi còn nhỏ, Lu cứ chạy ven bờ sủa nhặng, làm tôi rất bực. Lúc xong việc, chúng tôi quây quần bên đống lửa nướng cá ăn cho đỡ mệt vì rét và đói. Lu rất có kỷ luật, dù cá thơm như thế mà cậu chỉ chồm hỗm ngồi yên, mắt đăm đăm vào dàn cá đang thả mỡ rơi xèo xèo xuống dàn lửa. Nó là kẻ biết chờ đợi, kiên nhẫn chờ mấy cái đuôi cá nướng tụi tôi bẻ chia cho. Có lần, tôi bảo: “Ăn thế thôi. Chẳng làm gì lại kêu nhặng lên. Mày là chó, công cán gì mà ăn như vua! Biết tội chưa?”. Lu có thể nhận ra tôi nghiêm khắc, nên có vẻ sợ và chắc hối hận. Nhìn mắt nó thì biết. Cu cậu chứng tỏ thái độ bằng cách thè ngay lưỡi liếm nịnh vào tay tôi. Tôi tin rằng, giống vật hiểu được tiếng nói con người. Chỉ có điều nó không nói ra mà thôi. Bằng chứng là hai tháng sau, trong một lần đánh cá, khi chúng tôi đồng loạt nhao xuống dòng nước xiết, Lu cũng nhào theo và, thoắt càm lên bờ một con cá khá lớn rồi lại nhao xuống thả trôi tới hơn ba trăm mét để kiếm thêm con nữa. Tất nhiên, dù tụi tôi vì thiếu đói mà keo kiệt, vẫn phải để nó xơi nguyên một con cá. Thời gian vèo một cái hết mùa mưa. Chúng tôi sắp thu hoạch rẫy. Lúa rất mẩy và ngô nếp căng sữa chưa từng thấy. Khi này, Lu đã thực sự trở thành một chàng chó cường tráng và bắt đầu đỡ đần tụi tôi. Nó lùng sục suốt đêm ngày đuổi lũ chuột và sóc, cả những con khỉ nhanh lại khôn như chấy. Tôi không thể tưởng tượng rằng, sao nó bắt chước nhanh tới vậy. Đó là lần thấy tôi bò trườn giữa những cây lúa đang trĩu hạt, tiếp cận, đủ tầm bắn, một chú hoãng đang giác, lạc vào ven rẫy, nó cũng ngậm tăm bò ngay bên cạnh và lao như tên bắn ngay sau khi khói súng vừa loang trên đầu nòng… Mỗi ngày, nó được chứng kiến thêm, tham gia vào nhiều công việc của thằng lính. Nó vừa là bạn vừa là chiến hữu.

Theo chân Bác

Nhớ lời Di chúc, theo chân Bác

Tháng nǎm ơi, có thể nào quên
Hàng bóng cờ tang thắt dải đen
Rủ giữa lòng đau. Ta nhớ mãi
Cuộc đời như ngọn lửa đầu tiên.

Tôi viết bài thơ mừng thọ Bác
Nǎm nay vừa tuổi tám mươi tròn
Chắc như thường lệ. Người đi vắng
Để mọi lời ca tặng nước non.

Tôi viết bài thơ cho các con
Mai sau được thấy Bác như còn
Phơ phơ tóc bạc, chòm râu mát
Đôi dép mòn đi, in dấu son.

Xin nhớ từ đây, nhớ lại ngày
Bác Hồ từ giã cõi hôm nay
Bảy mươi chín tuổi xuân trong sáng
Vào cuộc trường sinh, nhẹ cánh bay…

Lạ thay, sức mạnh của tâm hồn
Mắt vẫn tươi như suối tận nguồn
Tay nhịp cho đời cao tiếng hát
Trời thu xanh ngát sáng Tuyên ngôn.

Như thế, Người đi… Phút cuối cùng
Nhẹ nhàng, thanh tịnh, rất ung dung
Lời Di chúc gửi, êm bên gối
Quên nỗi mình đau, để nhớ chung.

Bác ơi!

Thôi đập rồi chǎng? một trái tim
Đỏ như sao Hỏa, sáng sao Kim!
Muốn òa nức nở bên em nhỏ
Nước mắt ta đành nuốt, lặng im.

Cứ nghĩ: Hồn thơm đang tái sinh
Ngôi sao ấy lặn, hóa bình minh
Cơn mưa vừa tạnh. Ba Đình nắng
Bác đứng trên kia, vẫy gọi mình.

Súng hãy gầm lên, nén xót đau
Hãy lau ráo lệ, ngẩng cao đầu!
Chỉ xin nhớ để lời đêm trước:
Đốt pháo hoa mừng, đến lễ sau.

Bác đi… Di chúc giục lòng ta
Cho cả muôn đời một khúc ca
Lẽ sống, niềm tin, mong ước lớn
Và tình thương, ơn nghĩa bao la.

*

Tôi trở về quê Bác, làng Sen
Ơi hoa sen đẹp của bùn đen!
Làng quen như thể quê chung vậy
Mấy dãy ao chua, mảnh đất phèn.

Thǎm lại vườn xưa, mái cỏ tranh
Thương hàng râm bụt, luống rau xanh
Ba gian nhà trống, nồm đưa võng
Một chiếc giường tre, chiếu mỏng manh.

Ôi sáng hè vui, Bác trở về
Vẫn không quên lối cũ, tình quê
Bạn xưa, còn nhớ khi câu cá
Nhớ quả cà ngon, nhớ gốc chè….

Nhớ những nǎm nao… Máu Cửa Rào
Thân yêu hai tiếng gọi “đồng bào”
Phận nghèo, nước mất, dân nô lệ
Đêm tối, trời mây, chẳng ánh sao.

Đã tắt lâu rồi, lửa nghĩa quân
Phan Đình Phùng đó, Tống Duy Tân
Nguyễn Trung Trực lại Hoàng Hoa Thám
Đầu dám thay đầu, chân nối chân!

Muôn dặm đường xa, biết đến đâu?
Phan Chu Trinh lạc lối trời Âu
Phan Bội Châu, câu thơ dậy sóng
Bạn cùng ai, đất khách dãi dầu?

Cha đã đi đày, đau nỗi riêng
Còn nghe tiếng gót nặng dây xiềng…
Mẹ nằm dưới đất, hay chǎng hỡi
Xin sáng lòng con ngọn lửa thiêng!

Từ đó, Người đi… những bước đầu
Lênh đênh bốn biển, một con tàu
Cuộc đời sóng gió. Trong than bụi
Tay đốt lò, lau chảo, thái rau.

Mở mắt trông quanh, màu sắc mới
Những bờ bến lạ, nước nông sâu
Á, Âu đâu cũng lòng trong đục
Vàng máu chia hai cảnh khổ giàu.

Muôn nỗi đời như ảnh trắng đen
Bâng khuâng đêm lạnh, thức bên đèn
Một hòn gạch nóng nung tâm huyết
Mẩu bánh mì con nuôi chí bền.

Bao nẻo người đi, bước trước sau
Một câu hỏi lớn: Hướng về đâu?
Nǎm châu thǎm thẳm, trời im tiếng
Sách thánh hiền lâu đã nhạt màu.

Gǎng-đi, quay lại chiếc xa xưa
Dệt tấm lòng nhân đựng gió mưa!
Nghiệp lớn, Tôn Vǎn vừa dựng đó
Trǎm nǎm tay lái vững vàng chưa?

Ôi nhân loại! Địa cầu cháy bỏng
Lò sát sinh ngập máu xương rơi
Lũ đế quốc như bầy quỉ sống
Nướng người ǎn, nhảy nhót, reo cười.

Bỗng sấm nổ, Rạng Đông chớp giật
Hoan hô Cách mạng tháng Mười Nga!
Tủ sắt ngai vàng quǎng xuống đất
Công nông ta làm chủ đời ta,

Xóm thợ Pa-ri nghèo cuối ngõ
Tưng bừng gác trọ đón bình minh
Mác – Lê-nin đến… Từng trang đỏ
Chân lý đây rồi, lẽ tử sinh!

Đứng dậy! Ơi Người cùng khổ ơi!
Tiếng chuông ta đánh, giục liên hồi
Hãy bay đi, hãy bay qua sóng
Về nước non xa, thức tỉnh đời…

*

Tháng Giêng, Mạc-tư-khoa tuyết trắng
Một người đi, quên rét buốt xương
Từ xa đến… Lòng đau trĩu nặng
Giữa dòng người im lặng trên đường.

Anh tìm ai? Lê-nin vĩ đại
Tinh hoa trái đất, chất kim cương
Con người đẹp nhất trong nhân loại
Trí tuệ, tình yêu của bốn phương.

Lê-nin ơi, Người Thầy, Người Cha
Niềm tin trong sáng mãi lòng ta
Đêm nay nằm đó, mà thanh thản
Vầng trán mênh mông tỏa chói loà.

Tưởng nghe tiếng Người vang giục bước
Hãy trở về châu Á trẻ trung
Hỡi người trai Việt Nam yêu nước
Thổi bùng lên ngọn lửa anh hùng!

Về phương Đông, ta về phương Đông
Cùng phương Tây, giương ngọn cờ hồng
Đi ta đi, anh em đồng chí
Chặt xiềng gông, chặt hết xiềng gông!

Chào Trung Quốc trào sôi sức sống
Chào Quảng Châu công xã chính quyền
Đất tươi tốt. Đây mùa gieo giống
Hỡi Thanh niên cách mạng, vùng lên!

Hồn Nước gọi. Tiếng bom Sa Diện
Trái tim Hồng Thái nổ vang trời
Máu thơm tưới mầm non xuân đến
Vui lại rồi, Tổ quốc ta ơi!

Bác về kia! Đảng đã ra đời!
Trải mấy phong trần tuổi bốn mươi
Tay Bác cầm tay đồng chí trẻ
Tiến lên! Thời đại giục chân người.

*

Ôi sức trẻ! Xưa trai Phù Đổng
Vươn vai, lớn bổng dậy nghìn cân
Cưỡi lưng ngựa sắt bay phun lửa
Nhổ bụi tre làng, đuổi giặc Ân!

Như thế, buổi xuất quân hùng vĩ
Chúng ta đi, quyết chí, tự hào
Đường Kách mệnh sáng ngời chân lý
Đảng cầm cương lịch sử lên cao.

Hãy nghe khúc nhạc đầu hùng tráng
Bản trường ca chiến đấu Việt Nam
Trống Xô-viết rung trời Cách mạng
Cờ búa liềm đỏ đất Hồng Lam!

Khủng bố trắng. Máu dầm mặt đất
Chật Côn Lôn, Lao Bảo, Sơn La
Muôn chiến sĩ, một lòng bất khuất
Chỉ thương người sương tuyết bôn ba.

Nguyễn Ái Quốc. Ôi tên tha thiết
Của đời ta. Người ở phương nào?
Gió ơi gió, ơi chim có biết
Một người tù cất cánh bay cao?

Ta lại dấn chân vào trận mới
Sóng người dâng ngập lối, biểu tình
Rầm rộ cuộc diễu binh vĩ đại
Vì tự do, cơm áo, hòa bình.

Và những ngày qua, những tháng qua
Thư về từng lá, ấm lòng ta
Đường dài nẻo ngắn, lời khuyên dặn
Trǎm nỗi buồn vui, việc nước nhà…

Chiến tranh nổ. Gần xa hùm sói
Cắn cổ nhau. Pháp bại, Nhật vào.
Thân một cổ hai tròng buộc trói
Phải vùng lên, này súng này dao!

Bắc Sơn gọi, Nam Kỳ nổi dậy
Sống một ngày hơn mấy mươi nǎm
Lửa cǎm giận sôi dòng máu chảy
Sức mỗi người bỗng hóa thành trǎm!

*

Chiều mùa thu ấy… Đến Diên An
Có một Hồng quân, tay nóng ran
Đẩy chiếc xe bò lên với bạn
Rồi đi…. Lần bước xuống phương Nam…

Ôi sáng xuân nay, xuân 41
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
Bác về… Im lặng. Con chim hót
Thánh thót bờ lau, vui ngẩn ngơ…

Bác đã về đây, Tổ quốc ơi!
Nhớ thương, hòn đất ấm hơi Người
Ba mươi nǎm ấy, chân không nghỉ
Mà đến bây giờ mới tới nơi!

Ai đã đến, ai chưa đến đó
Có hòn núi Mác, suối Lê-nin
Hãy về thǎm quê ta Pác Bó
Nơi Bác về, nguồn nước mới sinh.

Hỏi dòng khe ấy, hỏi tre lau
Những tháng ngày xưa…. Bác ở đâu?
Núi vẫn nghiêng đầu nghe vách đá
Hát cùng cây lá gió ngàn sâu…

Hát rằng:

Sáng ra bờ suối, tối vào hang
Cháo bẹ rau mǎng vẫn sẵn sàng
Bàn đá chông chênh, dịch sử Đảng
Cuộc đời cách mạng thật là sang! (1)

Hang lạnh nhớ tay Người đốt củi
Bập bùng lửa cháy suốt đêm thâu
Ai hay ngọn lửa trong hang núi
Mà sáng muôn lòng, vạn kiếp sau!

Ngày hội lớn. Trung ương quanh Bác
Lán tre vừa lợp, ấm tình thương
Lịch sử hôm nay, đầu ngọn thác
Gọi toàn dân cứu nước, lên đường.

Việt Minh, hai tiếng dậy chiến khu
Truyền khắp dân gian, đuổi giặc thù
Cây đá mừng reo theo mỗi bước
Sớm hôm xóm núi bóng Già Thu….

*

Lam Sơn dậy một vùng Núi đỏ (2)
Du kích quân rộn rã thao trường
Cao-Bắc-Lạng khơi dòng thác đổ
Chảy về xuôi, mở lối đại dương.

Lại thương nỗi: đọa đày thân Bác
Mười bốn trǎng tê tái gông cùm
Ôi chân yếu, mắt mờ, tóc bạc
Mà thơ bay… cánh hạc ung dung!

Xta-lin-grát. Đất trời vang động
Én thu sang. Mừng Bác lại về!
Hoan hô Đội Tuyên truyền giải phóng
Buổi ra quân, gươm nóng lời thề!

Già nào
Trẻ nào
Đàn ông nào
Đàn bà nào
Kẻ có súng dùng súng
Kẻ có dao dùng dao.
Thấy Tây, cứ chém phứa
Thấy Nhật, cứ chặt nhào!
Ào ào ào… ào ào ào
(3)

Đường tiến công, sông núi xôn xao
Bác đã về xuôi. Chào Đại hội
Tiến quân ca sôi nổi Tân Trào!

Tổng khởi nghĩa! Lệnh truyền đêm trước
Sáng quân ra giải phóng Thái Nguyên
Hà Nội, Huế, Sài Gòn, cả nước
Đứng lên ta giành hết chính quyền!

*

Việt Nam, ta lại gọi tên mình
Hạnh phúc nào hơn được tái sinh
Mát dạ ông cha nghìn thuở trước
Cho đời, hai tiếng mới quang vinh!

Hôm nay sáng mồng hai tháng chín
Thủ đô hoa, vàng nắng Ba Đình
Muôn triệu tim chờ… chim cũng nín
Bỗng vang lên tiếng hát ân tình

Hồ Chí Minh! Hồ Chí Minh!

Người đứng trên đài, lặng phút giây
Trông đàn con đó, vẫy hai tay
Cao cao vầng trán… Ngời đôi mắt
Độc lập bây giờ mới thấy đây!

Người đọc Tuyên ngôn…. Rồi chợt hỏi:
“Đồng bào nghe tôi nói rõ không?”
Ôi câu hỏi, hơn một lời kêu gọi
Rất đơn sơ mà ấm bao lòng!

Cả muôn triệu một lời đáp: “Có!”
Như Trường Sơn say gió biển Đông
Vâng, Bác nói, chúng con nghe rõ
Mỗi tiếng Người mang nặng núi sông.

Trời bỗng xanh hơn, nắng chói lòa
Ta nhìn lên Bác, Bác nhìn ta
Bốn phương chắc cũng nhìn ta đó
Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa!

Ta đứng đây, lẫm liệt đường hoàng
Như Thạch Sanh, khí phách hiên ngang
Lưng đàn, tay búa, tay giương nỏ
Chém Mãng xà vương, giết đại bàng.

Chúng đến đó. Cả bầy hùm sói
Pháp theo Anh, một giống thực dân
Máu đã chảy. Miền Nam đã gọi
Những chuyến tàu hối hả ra quân…

Ghê thay lũ ô binh thổ phỉ
Kéo vào ǎn, miền Bắc xác xơ
Nguy vận nước mong manh đầu chỉ
Sức toàn dân quyết giữ cơ đồ!

Bác Hồ thức. Nǎm canh không ngủ
Nghe phong ba gào thét đá ghềnh
Vững tay lái. Ôi người thủy thủ
Đã từng quen bốn biển lênh đênh!

Người trông gió bỏ buồm, chọn lúc
Nước cờ hay, xoay vạn kiêu binh
Lòng nhẫn nhục quyết không khuất phục
Yêu hòa bình, đâu sợ chiến chinh!

Giặc đã đánh. Thì ta quyết đánh!
Thà hy sinh tất cả, không nao
Lời Bác gọi, nửa đêm vang lệnh:
“Hãy xông lên, chiến sĩ đồng bào!”

Cả nước đáp một lời: Quyết thắng!
Phố phường giǎng chiến lũy, vươn cao
Xóm thôn dựng pháo đài, đứng thẳng
Tre thành chông, người hóa anh hào!

Trải chín nǎm trường, đi kháng chiến
Gót chân trơn càng luyện tinh thần
Con suối nhỏ cũng mang hồn biển
Mỗi đời riêng lớn giữa lòng dân.

Ta có Bác dẫn đường lên trước
Bác cùng ta, mỗi bước gian lao
Vui sao buổi hành quân nắng lửa
Bỗng gặp Người, lưng ngựa đèo cao…

Thương sao, sáng lên đường ra trận
Người đến thǎm ta, vượt lũ nguồn
Nhớ sao giữa chiến trường lửa đạn
Người đứng trông ta đánh diệt đồn!

Chống gậy lên non xem trận địa
Vạn trùng núi đỡ vạn trùng mây
Quân ta khí mạnh nuốt Ngưu Đẩu
Thề diệt xâm lǎng lũ sói cầy
  (4)

Ôi những chiều mưa đầm lá cọ
Bác vào, tươi mỗi lán lều con…
Bữa cơm muối, mǎng non bí đỏ
Tháng ngày vui có Bác mà ngon!

Nơi Bác ở: sàn mây vách gió
Sáng nghe chim rừng gáy bên nhà
Đêm trắng một ngọn đèn khêu nhỏ
Tiếng suối trong như tiếng hát xa

Tiếng hát xa đưa… Muôn tiếng hát
Điện Biên! Trời đất dậy tin mừng
Bác Hồ khẽ vuốt chòm râu mát
Gió sớm đưa hương ngát cả rừng…

Điện Biên! Lừng lẫy Việt Nam ta
Vang tiếng kèn vui gọi mọi nhà
Mời bạn gần xa ra tuyến lửa
Mở đường giải phóng Á-Phi-La!

*

Chưa vẹn tròn vui, đã sáng tươi
Đường lên hạnh phúc đỏ chân trời
Bốn nghìn nǎm cũ, bao mơ ước
Đã được hôm nay, rạng mặt người!

Chung sức lại, ơi anh ơi chị
Ruộng đồng ta, nhà máy ta đây
Chỉ hai tiếng thân yêu: đồng chí
Đã thương rồi, ấm những bàn tay.

Đơn giản vậy, cơm ǎn áo mặc
Của ta nay, nặng biết bao tình
Cả không khí, trời xanh miền Bắc
Cũng trong như lòng Bác thương mình!

Muôn dặm ta đi, mới bước đầu
Nhớ lời Bác dạy, dễ quên đâu!
Nước non còn nỗi đau chia cắt
Nam Bắc hai miền, ta có nhau

Giặc Mỹ ngông cuồng đã đến đây
Hắn thường đem súng dọa Đông Tây
Lương tâm quen thói vàng mua bán
Có chúng ta đây, diệt chúng mày!

Máu đọng chưa khô, máu lại đầy
Hỡi Miền Nam trǎm đắng nghìn cay
Hǎm lǎm nǎm chẳng rời tay súng
Đi trước về sau, đã dạn dày!

Hỡi Miền Bắc đó, nặng đôi vai
Gánh cả non sông, vượt dặm dài
Xẻ dọc Trường Sơn, đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai!

Ôi! đất anh hùng dễ mấy mươi
Chìm trong khói lửa, vẫn xanh tươi
Mưa bom, bão đạn, lòng than thản
Nhạt muối, vơi cơm, miệng vẫn cười.

Thời đại lớn cho ta đôi cánh
Không có gì hơn Độc lập Tự do!
Bốn mươi thế kỷ cùng ra trận
Có Đảng ta đây, có Bác Hồ.

Ta hiểu. Miền Nam thương nhớ Bác
Nóng lòng mong đợi Bác vào thǎm
Ta hiểu. Đêm nằm nghe gió gác
Bác thường trǎn trở, nhớ Miền Nam!

Ai nói giùm ta hết tấm lòng
Bác Hồ thương nhớ mỗi dòng sông
Mỗi hòn núi ở Miền Nam đó
Như thịt da ta rỏ máu hồng!

Bản đồ bên vách treo, không nói
In mãi bàn tay Bác chỉ đường
Tấm lịch ngày ngày nghe Bác hỏi:
Hôm nay, đâu thắng ở tiền phương?

Ơi anh Giải phóng chân không mỏi
Mỗi bước hành quân, mỗi chiến công
Có thấy ấm lòng nghe Bác gọi
Sáng đường, đôi mắt Bác hằng trông!

Các anh, các chị ở trong ra
Những đứa con yêu trở lại nhà
Có phải mỗi lần ta gặp Bác
Bác vui như trẻ lại cùng ta?

Ôi! nụ cười vui của Bác Hồ
“Miền Nam đánh giỏi, Mỹ thua to!”
Bác ơi! Con biết con chưa giỏi
Quét sạch đường đi, để Bác vô!

*

Còn những ai chưa được một lần
Trong đời, gặp Bác? Hãy nhanh chân
Tiến lên phía trước! Trên cao ấy
Bác vẫn đưa tay đón lại gần….

Bác vẫn đi kia… giữa cánh đồng
Thǎm từng ruộng lúa, hỏi từng bông
Ghé từng hợp tác, qua thôn xóm
Xem mấy trường tươi, mấy giếng trong….

Bác vẫn về kia… Những sớm trưa
Hỏi lò than, xưởng máy, giàn tơ
Hỏi anh hỏi chị công nhân ấy
Vàng ngọc thi đua được mấy giờ?

Ơi anh bộ đội trên mâm pháo
Mắt lượn trời cao, dõi bóng mây
Có thấy, bốn mùa, quên nắng bão
Bên ta, Bác vẫn thức đêm ngày?

Biết chǎng, hỡi mẹ rất anh hùng
Con mấy lần đi lập chiến công
Hỡi chị hằng trông ngày thắng trận
Bác khuyên thương nhớ vững bền lòng.

Và các em, có hiểu vì sao
Lòng Bác mênh mông vẫn dạt dào
Yêu nụ mầm non, yêu tuổi trẻ?
Biển thường yêu vậy sóng xôn xao…

Vì sao? Trái đất nặng ân tình
Nhắc mãi tên Người: Hồ Chí Minh
Như một niềm tin, như dũng khí
Như lòng nhân nghĩa, đức hy sinh.

Đâu chẳng vang lời Bác thiết tha?
Đời vui tiếng Bác ấm muôn nhà
Bác đi… Đâu cũng nghe chân bước
Như gió xuân về, đất nở hoa….

Nếu có hôm nào ta vắng Bác
Chắc là Người bận chuyến đi xa…
Ơi đàn em nhỏ quên ca hát
Hãy lớn ngoan như Bác có nhà!

*

Anh dắt em vào cõi Bác xưa
Đường xoài hoa trắng nắng đu đưa
Có hồ nước lặng sôi tǎm cá
Có bưởi cam thơm, mát bóng dừa.

Có rào râm bụt đỏ hoa quê
Như cổng nhà xưa Bác trở về
Có bốn mùa rau tươi tốt lá
Như những ngày cháo bẹ mǎng tre….

Nhà gác đơn sơ, một góc vườn
Gỗ thường mộc mạc, chẳng mùi sơn
Giường mây chiếu cói, đơn chǎn gối
Tủ nhỏ, vừa treo mấy áo sờn.

Máy chữ thôi reo, nhớ ngón đàn
Thong dong chiếc gậy gác bên bàn
Còn đôi dép cũ, mòn quai gót
Bác vẫn thường đi giữa thế gian…

Bụt mọc dầm chân đứng đợi ai (5)
Quanh hồ thấp thoáng bóng hôm mai
Ngọn đèn kia thức bên ai đó
Mà dạ hương còn phảng phất bay!

Ô vẫn còn đây, của các em
Chồng thư mới mở, Bác đang xem
Chắc Người thương lắm lòng con trẻ
Nên để bâng khuâng gió động rèm…

Con cá rô ơi, chớ có buồn
Chiều chiều Bác vẫn gọi rô luôn
Dừa ơi, cứ nở hoa đơm trái
Bác vẫn chǎm tay tưới ướt bồn

Ôi lòng Bác vậy, cứ thương ta
Thương cuộc đời chung, thương cỏ hoa
Chỉ biết quên mình, cho hết thảy
Như dòng sông chảy, nặng phù sa.

Như đỉnh non cao tự giấu hình
Trong rừng xanh lá, ghét hư vinh
Bác mong con cháu mau khôn lớn
Nối gót ông cha, bước kịp mình.

Ta vào thǎm Bác, gặp Lê-nin
Trán rộng yêu thương, dõi mắt nhìn
Người đến cùng ta, ngồi với Bác
Như hình với bóng, một anh linh.

*

Bác ơi!

Xin để Người yên giấc mộng say
Còn trời đất đó, nước non đây
Còn ba mươi triệu con Nam Bắc
Quyết thắng, bền gan, tay nắm tay.

Còn triệu anh em đồng chí đó
Bốn mươi nǎm Đảng, óc tim này.
Nhớ lời Di chúc, theo chân Bác
Lên những tầng cao, thẳng cánh bay!

Ngày mai, thống nhất lại non sông
Mẹ được gần con, vợ gần chồng
Ôi đến ngày ta vui sướng nhất
Thỏa lòng Bác lại trở về trông!

Đời sẽ tươi hơn, xây dựng mới
Đàng hoàng to đẹp, sáng trời Đông
Tuổi xanh vững bước lên phơi phới
Đi tới, như lòng Bác ước mong.

Đem ngày gần lại, đổi nǎm xa
Nghĩa lớn tình chung, vẫn ruột rà
Bốn biển anh em hòa hợp lại
Trǎm đường một hướng, nở muôn hoa

*

Bác ơi!

Tết đến. Giao thừa đó
Vẫn đón nghe thơ Bác mọi lần
Ríu rít đàn em vui pháo nổ
Tưởng nghìn tay Bác vỗ xuân sang…

TỐ HỮU (1-1970)

Hồi ức về chiến tranh Biên Giới phía Bắc của một người lính

Hồi ức về chiến tranh Biên Giới phía Bắc của một người lính

THÁNG 7 – 29 NĂM TRƯỚC

Ngày 6-7: Trung đoàn 149 đã bí mật hành quân đến vị trí mới. Tin đầu tiên cho biết quá trình hành quân cũng như bố trí đội hình phòng ngự ém quân an toàn. Hiện tại D7,D9 rải quân dọc chân phía bắc cao điểm 812, riêng D7 chỉ cách địch gần cao điểm 685 chưa đầy 1km. D8 phòng ngự ở hướng tây Cốc Nghè dưới chân bình độ 1200, nhiêm vụ đánh địch phản kích từ hướng 1509 xuống và làm thê đội 2 của trung đoàn 818 phối thuộc.

Sở chỉ huy trung đoàn 149 nằm trong một hệ thống hầm bê tông kiên cố nhiều hẻm nhiều ngách đặt trên cao điểm 812. Cao điểm 812 ( Cốc Nghè ) cách đường biên giới 3km đường chim bay, đối diện với 812 ở phía bắc có 772 và 685, riêng 685 là đối diện trực tiếp. Mắt thường trời trong xanh từ 812 nhìn sang có thể thấy địch sửa sang công sự, khiêng cáng bọn bị thương hoặc đang đi lại trên chiến hào.

Tại 812 ta có thể quan sát bằng ống nhòm rất rõ ràng mọi hoạt động của địch trên các điểm cao 685, 772, 1509 và bình độ 1200, 1300. Tại đây ta đặt đài quan sát, sở chỉ huy pháo binh và nhiều loại hỏa lực bắn thẳng như pháo 85 ly, 76,2 ly 37 ly và 12,7 ly…v..v. Dưới chân 812 về phía tây bắc là sở chỉ huy tạm thời của sư đoàn

Ngày 7-7: Trung đoàn 876 được lệnh hành quân chiếm lĩnh vị trí. Trời mưa tầm tã, những cơn mưa mùa hạ ở núi rừng biên cương xối xả ầm ào, khe suối nước chảy xiết. Dòng sông Lô nước đỏ phù sa hung dữ cuộn sóng, sông thượng nguồn nước càng chảy càng mạnh cuốn băng những cây rừng trôi dập dềnh trên mặt sông đỏ nước. Ni lon trùm kín người , ba lô, súng đạn đoàn quân lầm lũi đi trong mưa tiến từng bước khó nhọc theo hướng Cốc Nghè tới 772.

Ngày 8-7: Đường từ Làng Pinh đến Cốc Nghè công binh quân khu mới mở mặt đường rộng từ 4-6m có chỗ rộng tới 8m, con đường này được gọi là đường Tăng. Mấy ngày qua mưa nhiều mặt đường sũng nước, bùn dính bê bết lún sâu nhiều quãng dài có chỗ ngập đến đầu gối. Đội quân vận tải hơn một tuần nay đi, về xéo nát mặt đường, họ mặc quần đùi đi chân đất vì giày dép không trụ nổi. Nhiều quãng lầy thụt công binh phải chặt cây rừng lát lên mặt đường. Pháo cối của địch liên tục bắn chặn phá đường thành nhiều hố đạn pháo rộng hoác ngay giữa tim đường. Dọc hai bên đường cây cối sạt lở đổ ngổn ngang vì đạn pháo địch….Trung đoàn 876 tiếp tục hành quân .

Ngày 8 đến ngày 9-7: Tại sở chỉ huy sư đoàn ở làng Trung toàn bộ cán bộ chiến sỹ nhân viên phục vụ của 4 cơ quan và thủ trưởng sư đoàn ăn bữa cơm trưa tập trung tại ngôi nhà sàn của một gia đình người Tày, nhà này rộng rãi chứa hơn 1 đại đội. Mấy tuần nay ngôi nhà này làm chỗ nấu ăn, kho lương thực thực phẩm và là nơi tiếp khách của sư đoàn.
Bữa cơm trưa nay khẩu phần ăn được tăng lên, có cả rượu và được xem là bữa cơm liên hoan để đi chiến đấu. Đồng chí sư trưởng, đồng chí chủ nhiệm chính trị cùng chung mâm chung chén với các sỹ quan và binh sỹ, đang ăn thì bị pháo địch bắn tới rất gần nhiều người vội bỏ bát đũa đi sơ tán.

Chiều nay 9-7 nhận kế hoạch di chuyển sở chỉ huy sư đoàn lên phía trước. Quân số sở chỉ huy cơ bản ở 812 khống chế rất gắt gao. Phòng chính trị giới hạn 6 người kể cả đồng chí phục vụ, phòng kỹ thuật 2 người, phòng hậu cần 1 người còn lại số đông là cơ quan tham mưu bao gồm các đồng chí chủ nhiệm binh chủng, một số sỹ quan tác chiến, nhân viên điện đài cùng đồng chí chỉ huy trưởng và một tiểu đội vệ binh bảo vệ sở chỉ huy.

Số còn lại của 4 cơ quan đặt tại làng Pinh là sở chỉ huy phía sau, tại đây đồng chí thiếu tá Thành chủ nhiệm hậu cần làm tổng chỉ huy. Gọi là sở chỉ huy phía sau nhưng thực ra ở đây chỉ là một đầu mối chủ yếu cho công tác đảm phục vụ, đây là các kho hàng và là nơi dừng chân của một cung đường dài.

Việc chuyển quân của E876 đi vào giai đoạn kết thúc nhưng lại xẩy ra một việc trong ngày. Đơn vị cuối cùng là D1 và một số bộ phận còn lại của cơ quan E. Đội hình đợt 3 khá dài tính toán chưa chặt chẽ về thời gian nên khi qua ngã ba Cốc Nghè thì trời đã sáng rõ. Lệnh của sư trưởng phải dừng lại vậy là cả một đội hình của một tiểu đoàn phải nằm ngay trên quãng đường trống trải phơi lưng cho địch. Nhiều người lợi dụng các đoạn chiến hào, các vật che khuất ngụy trang kín đáo và cứ thế không nhúc nhích không động đậy trong suốt thời gian từ mờ sáng đến chập tối, kỷ luật thật nghiêm ngặt. Địch không phát hiện thấy gì, trời tối hẳn đơn vị lại tiếp tục hành quân…

Thắng Còng .

Cơn ác mộng ‘Điện Biên Phủ’ của người Mỹ ở Khe Sanh

Trong suốt cuộc viễn chinh ở Việt Nam, giới quân sự Mỹ luôn mơ ước được dàn quân đánh nhau với quân chủ lực Bắc Việt Nam trên một mặt trận lớn, chấp nhận cả trường hợp chiến trường rừng núi như ở Điện Biên Phủ.

Nắm bắt được “nguyện vọng” này, Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam đã tương kế, tựu kế, mở mặt trận Đường 9 – Khe Sanh để hút và giam chân một bộ phận quan trọng chủ lực tinh nhuệ của Mỹ – Sài Gòn trên chiến trường rừng núi, tạo bí mật, bất ngờ và chia lửa cho các lực lượng cách mạng miền Nam trong tiến trình Tổng tiến công Xuân Mậu Thân 1968.

Khởi đầu như một đòn nghi binh chiến lược, chiến sĩ Khe Sanh cùng toàn mặt trận B5, đã áp dụng thế trận bao vây, đánh hiệp đồng binh chủng, tiêu diệt một bộ phận lớn sinh lực quan trọng, phá hủy khối lượng lớn phương tiện chiến tranh của Mỹ, ngụy, giải phóng một địa bàn gần một vạn dân. Đường 9 – Khe Sanh là một chiến thắng vang dội cả về chính trị và quân sự của Việt Nam cho đến ngày nay.

Sa bàn Khe Sanh trong Nhà trắng

Từ năm 1962, quân Mỹ và quân Sài Gòn xây một căn cứ không quân – lục quân ở một thung lũng hẻo lánh ở gần khu vực biên giới Việt-Lào, có ý nghĩa chiến lược do nằm gần tuyến vận chuyển “Đường mòn Hồ Chí Minh” nổi tiếng. Ở ngưỡng cửa năm 1968, tư lệnh Mỹ ở Nam Việt Nam, tướng Westmoreland, quyết định rằng cần phải “thả mồi ngon” lùa quân Bắc Việt vào bẫy, để buộc tướng Giáp phải đánh nhau theo cung cách quy ước, vốn là sở trường của quân Mỹ. Chiến dịch này mang tên Operation Scotland (1-11-1967/31-3-1968), nhận được sự tán thưởng của bộ sậu “diều hâu” ở Washington và Sài Gòn, Tổng thống Johnson cho đắp sa bàn Khe Sanh ở Nhà trắng và hằng ngày nghe “giao ban” về chiến sự ở đây. Vậy là, trong vành đai sắt dựng trên khu vực giáp giới với miền Bắc và Lào, ngoài hàng rào điện tử Mc Namara và hàng loạt căn cứ như Cửa Việt, Cồn Tiên, Đông Hà, Cam Lộ… Khe Sanh được kỳ vọng sẽ là “nam châm” hút quân Bắc Việt, để dùng ưu thế hỏa lực tiêu diệt trong một thế trận “Điện Biên Phủ đảo ngược”.

Cả Nhà trắng, Lầu Năm góc và Bộ chỉ huy viễn chinh Mỹ ở Sài Gòn (MACV) tập trung nghiên cứu chiến lệ Điện Biên Phủ (Hồ sơ nghiên cứu trận Điện Biên Phủ phục vụ riêng cho tổng thống Johnson dày hàng chục trang, trong tổng số vài trăm trang hồ sơ về trận Khe Sanh đã được giải mật). Cả MACV lẫn Bộ chỉ huy tối cao Hoa Kỳ đều đã nhận thấy Khe Sanh có một thế mạnh căn bản so với không chỉ với Điện Biên Phủ (ĐBP), mà với mọi pháo đài từng có trong lịch sử. Đó là Khe Sanh được hỗ trợ bởi hệ thống hỏa lực cực mạnh, chế áp độc lập từ bên ngoài, gồm hàng chục lần chiếc pháo đài bay B-52 đánh phá mỗi ngày (lấy từ kế hoạch Operation Arc Light, 1965-1973, theo hồ sơ mật Nhà trắng, các phụ tá quân sự đã nhiều lần trấn an Johnson về khả năng rải thảm ở mọi điều kiện thời tiết của B-52), gồm yểm trợ đường không cự ly gần bởi lực lượng khoảng 2.000 máy bay chiến đấu khác của không quân chiến thuật, không lực của hải quân, không lực của thủy quân lục chiến, với tần suất 500 lần chiếc ngày, hoạt động được cả trong điều kiện tầm nhìn zêrô (bay hoàn toàn bằng khí tài) cũng như ban đêm. Khe Sanh còn được yểm trợ bởi trực thăng: 3.300 chiếc (Operation Niagara II); các tổ hợp ra-đa kể cả loại tân kỳ như SKY SPOT; 16 bộ pháo tự hành trên xe xích “Vua Chiến trường” 175mm bố trí tại trại Ca-rôn ở gần Cam Lộ và trận địa trên đỉnh Rock Pile, 18 lựu pháo 105mm, 8 lựu pháo 155mm tại các căn cứ pháo binh tại Quảng Trị, pháo yểm trợ tầm trung từ trận địa bắc đèo Hải Vân… Được đặc biệt tin tưởng còn có đạn pháo 105mm COFRAM (Combined Ordinance Fragmentary Antipersonnel Munition) nổ từng tràng trên cao, văng vô vàn mảnh bao phủ một tầm sát thương rộng lớn, giống như bom bi (Cluster Bomb Unit), chủ yếu được để dành, nhằm tạo bất ngờ lớn một khi Khe Sanh bị tràn ngập; cũng như đạn pháo “tổ ong” (flechettes), khi nổ bắn ra muôn vàn mũi tên thép trong một hình nón 30 độ, rất hữu hiệu chống chiến thuật biển người… Bảo đảm kỹ thuật – hậu cần cho Khe Sanh, bao gồm tải thương bằng trực thăng (MedVac); và phương thức tiếp tế LAPES (thả dù ở độ cao tầm thấp) thực hiện bởi một cầu hàng không hiện đại, qui mô đến mức hoàn hảo trên các máy bay trọng tải lớn C-130, C-132. Oét-mô-len có thể đáp ứng cho Khe Sanh tới 600 tấn hàng tiếp tế/ngày, trong khi Na-va chỉ cung cấp được cho Điện Biên Phủ 100 tấn là cùng. Từ 19 đến 25 tháng Giêng, một hệ thống cảm biến điện tử hiện đại mang bí hiệu Muscle Shoals được triển khai quanh Khe Sanh để hỗ trợ cho các hệ thống trinh sát đường không và trên bộ. Còn phải kể đến lực lượng cơ động chiến lược gồm sư đoàn kỵ binh bay số 1 và sư đoàn không vận 101, đã hiện diện ngay trước Tết ở vùng chiến thuật I (CT1), để sẵn sàng từ ngoài đánh vào để cứu Khe Sanh. Tại cao điểm của chiến trường Khe Sanh, 15-3-1968, tướng Westmoreland tăng cường lực lượng cho vùng CT1 từ 38 tiểu đoàn Mỹ khi quân Bắc Việt Nam bắt đầu phong tỏa Khe Sanh lên 54 tiểu đoàn, tức là hơn một nửa số quân Mỹ viễn chinh ở Nam Việt Nam.

Tuy nhiên, trong số những người ở Washington tin tưởng rằng sẽ có một “Điện Biên Phủ” ở Khe Sanh, không phải nhân vật nào cũng nhất quyết rằng Mỹ chắc thắng được ở đó. Theo thư gửi Tổng thống ngày 10 tháng Giêng năm 1968, một đại diện cho khuynh hướng ngờ vực này phát biểu: “Điều đáng lo ngại là sự tập trung của bộ đội Việt Nam ở Lào chống lính thủy đánh bộ (LTĐB) đồn trú ở Khe Sanh. Tổng thống nên yêu cầu tướng Westmoreland cân nhắc lợi hại về việc rút khỏi Khe Sanh, nhất là khi đường 9 đã bị cắt… Tổng thống cần được yên tâm rằng, tướng Westmoreland tuyệt đối tự tin về khả năng đương đầu ở Khe Sanh; vì đây chính là cơ hội tốt nhất để một Điện Biên Phủ xảy ra. Mà kẻ địch thì đang tìm kiếm một trận Điện Biên Phủ”. Cho dù thông điệp đầu năm 1968 của Tổng thống Mỹ đầy khích lệ, nhưng mối lo ngại về cái dớp “Điện Biên Phủ” vẫn lơ lửng trong phòng bầu dục. Có lần, Johnson quay về phía các trợ lý quân sự và hét to “Quỷ tha ma bắt cái trận Điện Biên Phủ kia đi!”.

Trụ vững ở chân, nhưng lại “ăn” một cú vào đầu

Kể từ kỳ Giáng sinh 1967, tin tình báo dồn dập báo về. Hà Nội đã tiến hành một chiến dịch tiếp tế được hiệp đồng cực kỳ tốt theo Công văn báo cáo Tổng thống 22-1-1968 của tướng Gút-pa-xtơ. Cường độ vận chuyển, cả bộ lẫn thủy tại địa phận khu 4 của miền Bắc, cũng như của đường Hồ Chí Minh đã đột ngột tăng (trung bình mỗi ngày đêm, xe tải chuyển được tới 2.200 tấn hàng, gấp 8-10 lần so với trước, và đủ cung cấp cho một sư đoàn Bắc Việt trong điều kiện tác chiến trong 22 ngày – công điện báo cáo của DIA – tình báo quân sự Mỹ, ngày 19-1-1968). Trước đó, 11-1-1968, tổng hợp tin tức của CIA về mối đe dọa đối với Khe Sanh, phụ tá về an ninh của tổng thống báo cáo với Johnson về việc cộng sản “có vẻ đang sử dụng thời gian từ nay đến Tết để hoàn thành việc tập trung quân quanh Khe Sanh, chuẩn bị tiến công (căn cứ này) vào ngay sau Tết, bằng lực lượng “2 vạn quân… tương đương với 4 sư đoàn”.

Tướng Westmoreland lập tức phản ứng linh hoạt. 11 tháng Giêng, Westmoreland gặp tướng Cushman, tư lệnh quân Mỹ ở vùng chiến thuật I. Ngoài hai tiểu đoàn tăng cường LTĐB Mỹ hiện đóng ở Khe Sanh, kế hoạch tăng viện I sẽ là một tiểu đoàn LTĐB Mỹ đến nơi 8 giờ sau khi có lệnh, kế hoạch tăng viện II sẽ là một tiểu đoàn LTĐB Mỹ nữa, đến nơi 12 giờ sau khi có lệnh… Westmoreland cũng lệnh cho Cushman trong trường hợp khẩn cấp, điều theo thứ tự ưu tiên thứ nhất, một lữ đoàn của sư đoàn Americal vào khu vực Huế/Phú Bài. Thứ tự ưu tiên thứ hai, chuẩn bị tăng cường cho Vùng chiến thuật I tại các khu vực Huế/Phú Bài/Đà Nẵng, hoặc Chu Lai quân tiếp viện hoặc từ sư đoàn không vận 101, hoặc từ sư đoàn kỵ binh bay số 1. Các cuộc hành binh bổ trợ là lữ đoàn lính thủy đánh bộ Nam Triều Tiên đang di chuyển về Đà Nẵng và một số đơn vị của sư đoàn LTĐB số 1 đã tách ra để triển khai ở phía bắc đèo Hải Vân. Một số đơn vị của sư đoàn 3 lính thủy đánh bộ cũng đang tách ra để hành quân về tỉnh lỵ Quảng Trị. (Hồ sơ Nhà trắng, báo cáo của Westmoreland 12-1-1968). Điều trớ trêu là, thời hạn 31 tháng Giêng mà Westmoreland quy định phải điều động xong quân tăng cường cho vùng chiến thuật I (khu vực cận giới tuyến quân sự tạm thời và biên giới với Lào) lại chính là ngày sẽ đi vào sử sách phương Tây với cái tên là “cuộc tiến công Tết” đồng loạt nổ ra trên toàn miền Nam, gồm cả những nơi mà các đơn vị này vừa dời đi. Nhưng vẫn còn “may” cho Westmoreland. Vào những ngày ngay trước Tết, Weyand, tư lệnh Mỹ ở vùng chiến thuật III, một viên tướng gốc tình báo đã cảm nhận được những biến động quanh Sài Gòn, nhưng chủ yếu là do không thích đánh nhau ở rừng núi và biên cương. Ông ta đã xin được với Westmoreland đưa lực lượng cơ động quay về be chắn Sài Gòn. Trước giao thừa, 27 tiểu đoàn Mỹ đã trở lại tuyến phòng thủ Sài Gòn, còn 22 tiểu đoàn khác ở vành đai. Về sau Westmoreland sẽ ca ngợi đây là một trong những quyết định quan trọng nhất của cuộc chiến tranh Việt Nam. Còn các sử gia phương Tây thì cho rằng nếu hoàn toàn sập bẫy Hà Nội, đem đại quân đi càn quét vùng sâu vùng xa, Mỹ đã có thể mất Sài Gòn về tay Mặt trận Giải phóng trong dịp Tết Nguyên đán 1968.

Như để đáp lại “đơn đặt hàng” của Mỹ, chiều 20 tháng Giêng, quân Bắc Việt Nam đã khởi sự bằng pháo kích dữ dội bằng rốc-két (kachiusa) và cối vào căn cứ Khe Sanh. Kho đạn dược và kho nhiên liệu cho trực thăng nổ tung, đường băng cũng bị cày nát. Tướng Westmoreland viết báo cáo nhiều trang, cho thấy, vì dự liệu được cuộc tiến công này, từ đầu tháng, ông ta đã ban bố hàng loạt mệnh lệnh nhằm “tập trung quân lực Mỹ lớn nhất trong khả năng cho phép để đánh trả địch” (báo cáo 21-1-1968). Giữa những điều động và tăng cường trinh sát, ngày 19 tháng Giêng, Westmoreland đã điều tất cả các phi vụ ném bom của B.52 về vùng trọng điểm này. Cũng từ đây, tướng Westmoreland sẽ bắt đầu gần ba tháng liền tù tì “trực chiến” tại Sở chỉ huy, không về nghỉ đêm ở nhà riêng nữa. Chiến sử Khe Sanh của Mỹ cũng bắt đầu từ đây và đã tiêu tốn vô vàn giấy mực cho tới nay. Nhà trắng còn cẩn thận lưu vào Hồ sơ Khe Sanh những bài báo gây chấn động. Đáng chú ý có hai bài ra ngày 29-1-1968, Việt Nam: bão đang nổi lên; và Trận Khe Sanh: bước ngoặt có tính then chốt.

Ở Washington, tổng thống Mỹ theo dõi chặt chẽ tình hình chiến sự ở Khe Sanh. Giôn-sơn bắt Bộ tham mưu liên quân phải ký “quyết tâm thư bằng máu” giữ Khe Sanh. Trước đó (12-1-1968), Westmoreland khẳng định Khe Sanh, ngoài giá trị chiến lược về quân sự như chiếc “mỏ neo” ở phía tây của hệ thống phòng thủ vùng giáp giới tuyến, còn chặn đường “địch” xâm nhập xuống các tỉnh duyên hải trù phú. Từ bỏ Khe Sanh sẽ tạo ra một chiến thắng trọng đại về phương diện tuyên truyền cho đối phương, làm mất tinh thần của Mỹ và “Việt Nam cộng hòa”. Giới quân sự Mỹ dường như đã chuyển từ hành động quân sự thuần túy (chiến tranh quy ước) sang quan điểm chiến tranh còn chịu sự chi phối của các mục tiêu chính trị. Những hạt giống như thế này rồi sẽ nảy mầm thành những luận thuyết dạng như “Mỹ đã không thua về quân sự, chỉ thất bại về chính trị ở Việt Nam” xuất hiện ở Hoa Kỳ gần đây.

Ở Khe Sanh, bất chấp 40 lần không kích của B-52 và 500 lần chiếc máy bay chiến thuật mỗi ngày, đối phương vẫn chưa xuất kích. Johnson lo lắng. Ngày 2 tháng 2, ông ta lại thúc bách Chủ tịch hội đồng liên quân Uyn-lơ phân tích sự tương đồng giữa Khe Sanh và Điện Biên Phủ. Trả lời vào hôm sau, Uyn-lơ lại trích báo cáo của chính Westmoreland để trả lời tổng thống. Theo đó, kỹ năng tác chiến và nhất là công năng vũ khí của Mỹ hiện có ở Khe Sanh đều “trên tài” người Pháp ở ĐBP nhiều lắm. Điều lạ là trong dịp này, Westmoreland lại hỏi xin thêm máy bay C-130, máy bay trực thăng; các vũ khí cá nhân hiện đại hơn như tiểu liên M-16, súng máy M-60 và cối M-29 cho quân Sài Gòn. Việc quân Giải phóng và cả du kích miền Nam sử dụng những vũ khí mới gây nên một sự hoảng loạn trong hàng ngũ ngụy quân; theo báo cáo 25-2-1968, quân Sài Gòn từ nay gọi súng carbine là “súng đồ chơi”, đòi người Mỹ phải chi ra những khí giới mới.

Lạ hơn nữa là Westmoreland lại đề cập khả năng dùng đến vũ khí hạt nhân chiến thuật, hoặc vũ khí hóa học, “nếu tình hình vùng gần giới tuyến quân sự tạm thời thay đổi nghiêm trọng”. Chuyện này làm người ta không thể không liên tưởng đến kế hoạch “Chim kền kền” của Mỹ đời tổng thống Eisenhower, đòi ném bom nguyên tử xuống Điện Biên Phủ.

Cuối cùng miền Bắc cũng “xơi gọn” Làng Vây

Không có tin về Khe Sanh nổ súng không có nghĩa là tin tốt. Vì quân Bắc Việt dĩ nhiên đang chuẩn bị chiến trường. Qua trận Cồn Tiên vài tháng trước, đã lộ rõ ý đồ áp dụng kinh nghiệm vây lấn ở Điện Biên Phủ. Đại bác thường được “đút” ngang hông các triền núi, khi bắn kéo ra ngoài, bắn xong vài loạt lại rút ngay vào trong hầm để tránh phản pháo. Bộ binh thì tiến dần vào cứ điểm quân đồng minh (quân của Mỹ, Sài Gòn và đồng minh của họ) bằng cách đào công sự tỏa ra như nan quạt, vừa đào vừa đánh. Lần này những chiến thuật như thế không thể gây kinh ngạc đến mức phải tự vẫn, như đại tá pháo binh Pháp Piroth ở Điện Biên Phủ, nhưng vẫn được nói đến trong các báo cáo chiến sự ở Khe Sanh. Quân Mỹ sẽ dùng B52 đánh “sát sườn” căn cứ của mình, hoặc sử dụng mọi thứ hỏa lực, kể cả bom na-pan để ngăn chặn từ xa sự lan tỏa trận địa chiến hào của đối phương.

Trong khi dõi theo chiến sự đang tiếp diễn ác liệt trên toàn miền Nam, Washington vẫn dỏng tai chờ tiếng súng mở màn Khe Sanh. Hôm 4-2, sau khi đọc báo cáo về việc đối phương “đang chuẩn bị tiến công cực kỳ mãnh liệt ở Vùng chiến thuật I”, một phụ tá quân sự cao cấp, tướng Ginsberg, được Johnson tuyệt đối tin tưởng, đã tâu rằng, chắc là tại B52 và máy bay ném bom chiến thuật đã làm “xáo trộn kế hoạch tiến công của Bắc Việt Nam”, hoặc giả, Hà Nội đang chờ các chiến trường phối thuộc, tức là các thành phố ở miền Nam, tổng công kích đợt hai.

Dường như không muốn Nhà trắng phải thất vọng, ngay hôm sau, mồng 5 tháng 2, một số đơn vị thuộc Sư đoàn 325 của miền Bắc đã tiến công cứ điểm 861 thuộc lực lượng đồn trú Khe Sanh, kết hợp với 4 giờ liền nện rốc két, cối và pháo hỏa chuẩn bị. Báo cáo cho Nhà trắng biết, thủy quân lục chiến Mỹ và B52 cũng đáp lại dữ dội. Bắt đầu từ đây, Westmoreland được yêu cầu gửi báo cáo chi tiết hằng ngày về Khe Sanh, gồm cả thời tiết, và tình trạng đường băng là yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động của cầu hàng không tiếp tế cho Khe Sanh và tải thương, bao nhiêu loạt COFRAM đã được bắn. Nổi bật trong đó dĩ nhiên là con số lính Mỹ chết hoặc bị thương trong ngày ở Khe Sanh và bao nhiêu trong số thương vong này đã được sơ tán bằng trực thăng. Số liệu này của ngày 5-2 chẳng hạn, là bảy lính cổ da (LTĐB Mỹ) tử trận, 44 người khác bị thương. Những cơn buốt đầu của ông chủ Nhà trắng được thể hoành hành dữ dội hơn.

Dịp này, Rostow viết báo cáo cho Tổng thống, nhấn mạnh: “À đây rồi, chính nó (thời điểm bản lề của cuộc chiến tranh)!”. Ông ta lưu ý rằng Việt cộng sẽ còn tổ chức những đợt tiến công mới vào các tỉnh lỵ, đô thị, vì cú sốc đầu tiên dành cho quân đội và bộ máy chính quyền Sài Gòn tuy mạnh, nhưng chưa đủ sâu. Ông tái khẳng định rằng cuộc chiến đấu trong các đô thị chính là “chiến dịch nghi binh then chốt” để hút quân dự bị đang dành để ứng cứu Khe Sanh phải trở về đánh nhau ở các thành phố (!) Cũng trong báo cáo này, Rostow đề xuất với tổng thống Mỹ, vì đây là “trận đánh có ý nghĩa quyết định đối với hướng đi của châu Á trong một thời gian dài và vị thế của Hoa Kỳ trên thế giới và là trận đánh chỉ được phép thắng, tổng thống cần:

1- Điều ngay sư đoàn không vận số 81 sang Việt Nam bằng máy bay.

2- Tăng cường lấy quân ở Việt Nam và các nơi khác nữa.

3- Huy động lực lượng dự bị ở Hoa Kỳ …

Rạng sáng 7 tháng 2, căn cứ lực lượng đặc biệt (LLĐB) Làng Vây, cách Khe Sanh 5 dặm về phía bắc bị tràn ngập bởi trung đoàn 66, “hung thần” của trận thung lũng Iađrăng 1965. Tướng Giáp đã xuất chiêu với “bảo bối” mới: các xe tăng do Liên Xô sản xuất. Viên chỉ huy Khe Sanh đã từ chối ứng cứu cho hơn 500 lính mũ nồi xanh đóng ở Làng Vây, sợ mắc mưu “đánh điểm diệt viện” của QĐND Việt Nam. Nhưng các máy bay phóng pháo đã tới oanh tạc. Nếu việc xe tăng xuất hiện ở chừng mực nào đó không hẳn đã là một bất ngờ (Nhà trắng đã dự kiến sự xuất hiện của bộ đội không quân và tên lửa Việt Nam ở Vùng chiến thuật I này), thì việc xe tăng tiến vào cứ điểm Làng Vây từ ba hướng, chỉ bị phát hiện khi đã ở trong hàng rào thép gai, lại gây sửng sốt, ngờ vực. Thái độ bạc đãi (tước vũ khí, giam xuống hố) của lính thủy đánh bộ Mỹ ở Khe Sanh đối với các lính LLĐB người Thượng chạy thoát từ Làng Vây về khiến người ta nghĩ rằng đã có một sự khắc phục bài học “nội phản”, như của cứ điểm Bản Kéo ở Điện Biên Phủ. Hồ sơ rút kinh nghiệm Điện Biên Phủ ở Nhà trắng có đề cập một nguyên nhân thất bại của tập đoàn cứ điểm này là, quân Pháp đã “sống chung” với một số lượng dân thiểu số bản xứ, mà người Pháp cho rằng đã có điệp viên của Việt Minh trà trộn vào. Trong thời gian Làng Vây bị tiến công, Khe Sanh cũng bị pháo kích, gây tổn thất cho lính thủy đánh bộ (LTĐB) Mỹ.

Thoái chí, nhổ neo chuồn

Sự căng thẳng “trước giờ nổ súng” mà Khe Sanh áp đặt khá lớn. Một số phụ tá quân sự và an ninh đã phải làm các động tác lên dây cót cho ông chủ Nhà trắng. Trong báo cáo 4-2-1968, tướng R.Ghin-đen-bớc tìm cách động viên tinh thần của các tư lệnh, cũng như Tổng tư lệnh (tức là tổng thống Johnson) bằng cách nêu lại một kinh nghiệm về giờ G (thời điểm đổ bộ) trong thế chiến II mà ông nghĩ là có ích cho Khe Sanh… Trong báo cáo 8-2-1968, một ngày sau khi mất Làng Vây, như là Him Lam của Điện Biên Phủ, đại sứ C. Lốt-giơ đã viết, vì quan điểm của ông có thể đã bị ai đó gièm pha “nơi trướng gấm” (Nhà trắng), ông tái khẳng định rằng không hề nghiêng ngả trong ủng hộ chủ trương giữ Khe Sanh, coi đó như một quyết định sống còn. Nhưng chỉ một tuần sau, gió xem ra đã đổi chiều. Rostow viết cho tổng thống trong báo cáo 14-2-1968 về Khe Sanh như sau:

“Tôi biết rằng Khe Sanh chiếm chỗ quá nhiều trong tâm trí của ngài, cũng như của tôi. Rất có thể đã quá muộn để làm được điều gì trong hoàn cảnh này. Nếu đúng như vậy, cần phải dẹp bỏ mọi nghi ngại sang một bên và sẵn sàng chiến đấu. Mặt khác, nếu còn có thời gian để áp dụng một ảnh hưởng hữu ích (lên tình hình), thì ta phải hành động ngay.

Tôi vừa xem lại các ý kiến của tướng Westmoreland trong các điện văn gần đây. Theo đó, ông ta trình bày rằng việc chiếm đóng Khe Sanh từ ban đầu đã được biện minh bởi nhu cầu thiết lập một căn cứ hành quân nhằm tiến hành các hoạt động ngăn chặn các đường thâm nhập chính yếu từ đông Lào sang. Quan trọng hơn, việc chiếm đóng này còn ngăn chặn địch tiến về Quảng Trị, cũng như ngăn chặn chiến sự lan tới vành đai đông dân ven biển của Vùng chiến thuật I. Nhưng Westmoreland lại thừa nhận rằng Khe Sanh chẳng hữu hiệu mấy trong ngăn chặn thâm nhập từ Lào, và vai trò ngăn chặn (Quân giải phóng) tiếp cận Quảng Trị cũng chẳng rõ rệt lắm, cả trong quá khứ lẫn hiện tại.

Vậy là tướng Westmoreland trở nên không ủng hộ mạnh mẽ cho việc phòng thủ Khe Sanh nữa, bởi vai trò hiện tại của nó trong ngăn chặn các đường thâm nhập từ Lào hay trong phòng thủ khu vực chủ yếu của các tỉnh phía Bắc (của Nam Việt Nam). Cho dù tướng Westmoreland có nói trong một cuộc điện thoại với tướng Uyn-lơ rằng, ông tin tưởng rằng việc giữ Khe Sanh sẽ đem lại cơ hội, vào một lúc nào đó, chống lại đòn đánh mạnh của kẻ thù. Nhưng ông đã không nhấn mạnh điều này. Ngược lại, qua các bức công điện, ông tỏ ra bị căng thẳng do những khó khăn của việc rời bỏ Khe Sanh, cùng những hậu quả tâm lý sẽ đến của cuộc rút lui này, ảnh hưởng lên Nam Việt Nam và lên công chúng Mỹ…”.

Những căng thẳng dồn nén trong chiến cuộc Xuân 1968 đã dẫn đến tuyên bố nổi tiếng của Johnson hôm 31 tháng ba, hạn chế việc ném bom tới rìa phía Bắc khu phi quân sự, bày tỏ sự sẵn lòng đàm phán của phía Mỹ, cũng như quyết định không chạy đua cho một nhiệm kỳ tổng thống nữa. Ngay hôm sau, vào ngày “nói dối”, 1-4, cuộc hành binh giải tỏa Khe Sanh bắt đầu. Hồ sơ Nhà trắng giai đoạn này cũng phản ảnh “chiến dịch nghi binh” bằng một liên đội tăng cường quân kỵ binh bay Mỹ, tiểu đoàn 3 LTĐB Mỹ và chiến đoàn 2 của Sài Gòn, được yểm trợ bởi năm tàu chiến Mỹ, đánh về phía tây bắc Đông Hà báo cáo 4-4-1968), để phân tán lực lượng “địch” đang vây ép Khe Sanh. Hồ sơ trận Khe Sanh của Nhà Trắng, hiện mới giải mật đến hôm 5-4-1968. Theo các nguồn tin khác của Mỹ, quân kỵ binh bay Mỹ đã phải nện nhau thật lực với quân Bắc Việt Nam hôm mồng 6, cũng như trận đánh tại lô cốt cũ của Pháp ở Khe Sanh kéo dài 3 ngày liền từ 4 đến 7 tháng 4. Nhìn chung, hoạt động đánh trả đầu tháng 4 của đối phương được các báo cáo trong hồ sơ Khe Sanh là “không mạnh”, để quân kỵ binh bay thuộc loại “hàng xịn” còn mã hồi cho sớm. Nhưng, vẫn theo nguồn tin Mỹ, khi Ngựa bay chính thức kết thúc hôm 15-4, tức là sau hai tuần, đã có gần 800 lính Mỹ và hơn 200 lính Sài Gòn bị loại khỏi vòng chiến đấu trong chiến dịch giải tỏa Khe Sanh này.

Giấu đi đâu một “Điện Biên Phủ” nữa

Tưởng như đã bưng bít xong, nhưng rồi Nhà Trắng lại chao đảo lần nữa vì Khe Sanh. Lần này, lại vẫn do lũ nhà báo giở giói ra. Ngay từ hôm 24-6 phóng viên Giôn Ca-rôn của tờ Mặt trời Baltimore đã loan tin Bộ chỉ huy Mỹ “vừa buộc phải rút bỏ Khe Sanh, một căn cứ quân sự được (Mỹ) phòng thủ với một giá đắt, do vị trí rào cản có tính sống còn của nó ở dưới khu giới tuyến”. Bộ chỉ huy Mỹ mập mờ phủ định tin này, nhưng tay phóng viên khẳng định “Các thủy quân lục chiến biết việc này, người Bắc Việt Nam biết việc này, chỉ có nhân dân Mỹ là không biết. Mặc dù Bộ chỉ huy Mỹ giải thích việc này (bỏ Khe Sanh) là do những yêu cầu về quân sự đặt ra, nhưng miền Bắc cho đây là thất bại nghiêm trọng nhất cả về chiến thuật lẫn chiến lược của Mỹ trong cuộc chiến tranh này”.

Theo báo cáo dành cho tổng thống 25 và 26-6-1968, quân sư “quạt… máy” Rostow đã phải nhanh chóng ra tay. Một là, ông ta đã mất nửa giờ thuyết phục hãng tin Mỹ tầm cỡ toàn cầu AP đừng đưa tin của Mặt trời Baltimore. Hai là, để hỗ trợ cho Abrams hiện đang rối beng lên về việc “tiêu thổ” ở Khe Sanh và trăm thứ việc khác trên toàn miền Nam, Rostow đã dự thảo để MACV ra một tuyên cáo. Cốt lõi cho tuyên cáo này là, quân Mỹ phải bỏ Khe Sanh chỉ vì “địch đã thay đổi chiến thuật”. Tuy nhiên. Rostow vẫn còn lo Westmoreland, đã nổi đóa vì bị Abrams qua mặt, cho bỏ Khe Sanh ngay sau khi người tiền nhiệm vừa rời gót, sẽ phản đối luận điệu này. May mà mọi sự êm thấm. Rostow đã dàn xếp được để phát biểu của Abrams ở Việt Nam, và của Westmoreland ở Honolulu không chống nhau. Thông báo của Bộ chỉ huy Mỹ hôm 26-6-1968 đã không dài dòng văn tự như kịch bản Rostow dự thảo, chỉ gồm hai luận điểm, để khỏi hở sườn. Một là, việc căn cứ Khe Sanh “thôi không hoạt động nữa là do địch đã thay đổi chiến thuật”. Hai là, Bắc Việt Nam hiện đang tập trung ở vùng quanh Khe Sanh tới 8 (!) sư đoàn, chứ không còn là 6 sư đoàn như hồi tháng Giêng 1968.

Tác động của Mỹ rút bỏ Khe Sanh đối với công luận được tác giả Peter Bush đánh giá như sau:

“Tướng Abrams ra lệnh giữ bí mật chuyện đóng cửa căn cứ càng lâu càng tốt. Đến khi chuyện này buộc phải công bố chính thức, chỉ một lượng thông tin nhỏ được cung cấp. Sự kiện bỏ Khe Sanh được công luận Mỹ nhìn nhận một cách “đầy ngờ vực và hoang mang”. Lầu Năm Góc ghi nhận việc công bố quyết định bỏ Khe Sanh là “một sứ mạng khó khăn về phương diện tuyên truyền”.

Ngày 7 tháng 7, tờ Thời báo New York đưa tin từ Hồng Kông, cho rằng người châu Á nhìn chung tin vào lý do Mỹ phải bỏ Khe Sanh mà đài Hà Nội đã đưa ra, và bác bỏ cách giải thích của Mỹ, theo đó việc bỏ Khe Sanh là do “tình hình về quân sự đã thay đổi”.

Không giống như một số trận đánh khác, Khe Sanh đã chiếm được chú ý của truyền thông đại chúng và công luận ở Mỹ. 25 phần trăm thời lượng phim chiếu trên chương trình truyền hình buổi tối trong tháng 2 và tháng 3 năm 1968 tường thuật tình hình ở Khe Sanh. Riêng kênh CBS, tỷ lệ này là 50 phần trăm. Viện Gallup đưa ra số liệu, cứ 5 người thì 1 vừa chuyển từ lập trường diều hâu sang bồ câu trong khoảng cuối tháng 2, đầu tháng 3. Vì thế, cách tốt nhất để làm cho Khe Sanh khỏi gây ảnh hưởng xấu đối với công chúng Mỹ là bỏ căn cứ này”.

Nhưng cho đến ngày nay, Khe Sanh vẫn là một chủ đề gây nhức nhối ở Mỹ. Và để làm dịu bớt, còn nhiều tư liệu của Mỹ dần dà sẽ được giải mật. Và người dân sẽ được thông tin đầy đủ hơn về việc Nhà Trắng và bộ sậu diều hâu ở Mỹ đã “lãnh đủ một Điện Biên Phủ” ở Khe Sanh ra sao trong chiến cuộc Xuân Mậu Thân.

Theo QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN

Nhận diện đạo đức con người qua tục ngữ và thơ ca dân gian

Nhận diện đạo đức con người qua tục ngữ và thơ ca dân gian

Đạo đức của con người luôn được mọi thời từ cổ tới kim đề cập tới. Ngày nay, đây cũng luôn là một vấn đề “nóng”. Để giúp mọi người thẩm định, đánh giá một cách chính xác về đạo đức con người, người viết xin được giới thiệu một vài kinh nghiệm của ông cha ta xưa xung quanh vấn đề này.

Trong thực tế và qua thực tế cuộc sống, hẳn bạn đã từng được mắt thấy, tai nghe những câu chuyện về những con người mà dân gian thường nói là “miệng nam mô mà bụng bồ dao găm”.

Nhìn vẻ ngoài của những con người này thật bóng bẩy, hào nhoáng; họ nói rất dẻo, hót rất hay, nên nhiều người cứ lầm tưởng rằng, đó chính là “vàng mười đích thực chứ không phải là thau”.

Nhưng đến khi có một sự biến nào đó thì, than ôi, “cháy nhà ra mặt chuột”, đó đích thị là “rắn độc cuộn khúc tưởng ra rồng vàng”.

Không đến nỗi như hạng người đã đề cập ở trên, nhưng trong cuộc sống cũng không thiếu những con người khi mới chân ướt chân ráo về làm việc ở cơ quan, đơn vị thì tỏ ra rất sốt sắng, nhiệt tình; họ thường tâng bốc bợ đợ những người “bề trên”; nhưng hẳn là “Đường dài hay sức ngựa, nước loạn biết tôi ngay”,Gặp cơn đại loạn mới hay trung thần”. Và quả là, được một thời gian họ liền bị lộ diện chân dung ngay- họ gây bè, kéo cánh, đấu đá lung tung dối trên, lừa dưới làm cho nội bộ cơ quan đơn vị rối ren.

Và chính theo các tác giả của tục ngữ Việt Nam thì trong những thời điểm hòa bình, yên vui, phẩm chất đạo đức của con người ít được bộc lộ. Chỉ trong hoàn cảnh khó khăn, hoạn nạn thì “chất đỏ” và “vết đen” của con người mới được kiểm chứng cụ thể. Không những thế, hàng loạt những công việc, hành động cụ thể khác của con người được tục ngữ, thơ ca dân gian Việt Nam lấy làm tiêu chí kiểm định đạo đức.

Nhận xét khái quát này thể hiện qua triết luận: “Xem trong bếp, biết nết đàn bà”. Câu ấy có nội dung, ý nghĩa vào loại đơn giản, dễ hiểu nhất. Tác giả của nó muốn diễn đạt: cứ trông trong bếp, nếu thấy gọn gàng, ngăn nắp, sạch sẽ thì biết nết lao động, cũng như biết đức hạnh của bà (hoặc chị, cô) chủ là tốt; ngược lại, nhìn thấy bếp bừa bãi, lộn xộn, bẩn thỉu thì biết ngay là chủ nhân của nhà bếp đó thuộc loại người luộm thuộm, phẩm chất có vấn đề và phải được, xem xét.

Bài ca dao ngụ ngôn dưới đây cũng lấy việc làm, hành động là tiêu chí kiểm định đạo đức: “Cái Cò, cái Vạc, cái Nông / Sao mày dẫm lúa nhà ông hỡi Cò/ Không không tôi đứng trên bờ/ Mẹ con cái Vạc đổ ngờ cho tôi / Chẳng tin thì ông đi đôi / Mẹ con nhà nó còn ngồi đây kia”. Mẹ con nhà Vạc là kẻ ác, dẫm lúa của người ta lại đổ lỗi đó cho Cò. Những kẻ nhẫn tâm như mẹ con nhà Vạc trong bài ca dao này bị người đời chê trách, lên án gọi là kẻ “gắp lửa bỏ tay người“. Và thời nay vẫn còn đầy rấy những kẻ “gắp lửa bỏ tay người” như vậy. Đáng lên án thay.

Một khía cạnh khác mà các tác giả của tục ngữ, thơ ca dân gian thường đề cập đến là đạo đức con người phải được thẩm định, đánh giá qua thực tế, từ thực tế và trong thực tế : “Lửa thử vàng, gian nan thử sức”, hay “Có gió rung mới biết tùng bách cứng, có ngọn lửa hừng mới biết thức vàng cao”. Vâng, dù xưa hay nay; dù là người phương Đông hay người phương Tây, đạo đức của con người chỉ bộc lộ và bộc lộ một cách rõ nét nhất qua những gì mà người đó đã hành động, đã làm việc; bởi trên đời này luôn là thế “mọi lí thuyết đều là màu xám, còn cây đời mãi mãi xanh tươi”.

Chuyện xưa bên Tàu kể rằng, Trang Tử- một triết gia, nhà tư tưởng lừng danh, đã từng tự mình làm một cuộc thử nghiệm là giả chết để đo sự đoan trang, đức hạnh của người vợ. Kết quả là, ông đã xác minh được phẩm hạnh của người vợ trẻ đẹp – một kẻ miệng nói thủy chung và bao lời hay, ý đẹp về phẩm chất đạo đức, nhưng trên thực tế đã có hành động ngược lại. Thời nay, nếu ai đó bắt chước Trang Tử “giả chết”, thì sẽ nhận ngay được chân giá trị của câu tục ngữ mang đậm tính triết lí dân gian “Chết giả mới biết dạ anh em”– một triết lí mang đậm giá trị đạo đức gia đình, xã hội.

Và, không hiểu tôi có phải là người hoài cổ hay không mà sao lúc nào tôi cũng có ý nghĩ rằng, các cô thiếu nữ xưa, dù là hạng người nào, cũng còn sót lại trong mình những chân giá trị đạo đức đáng quí. Không như nhiều cô gái ngày nay, cứ thấy bất cứ chàng trai nào, dù đã có vợ rồi, tán tỉnh- nhất là những người có tiền, quyền và chức, là họ sẵn sàng đổ vào “không cho nó thoát” mà chẳng biết suy luận về chân giá trị đạo đức của “nó” ra sao.

Còn các cô gái xưa, họ khác thế lắm. Khi biết một chằng trai đã có vợ, do si tình và giả dối, đã đến “tán tỉnh” mình, bằng cảm nhận trực quan và sự suy luận thông minh, họ đã lên tiếng vạch mặt, chỉ tên rằng : “Vợ anh như trúc, như thông/ Như hoa mới nở, như rồng mới thêu/ Anh còn lưỡng lự trăm chiều/ Gan ai là sắt dám gieo mình vào/ Vợ chồng như ngọc, như ngà. Anh còn ruồng rẫy nữa là thân em”; “Vợ anh như bát cơm xôi/ Anh còn chẳng chuộng nữa tôi cơm hàng/ Vợ anh tay bạc tay vàng/ Anh còn chẳng chuộng nữa nàng tay không…”.

Vẫn biết rằng, nhận diện đạo đức của mỗi một con người cần phải có một quá trình. Không thể vội vàng đánh giá về người mà mình vừa mới tiếp xúc, nhất là sự đánh giá về đạo đức của họ. Về vấn đề này, dân gia cũng đã từng răn dạy rằng : “Thức lâu mới biết đêm dài, ở lâu mới biết con người có nhân”.

Tuy nhiên, phải công nhận rằng, nhận diện đạo đức, đánh giá về đạo đức của mỗi một con người quả là một vấn đề rất khó, bởi phẩm chất đạo đức của con người- do bản chất của nó, vốn là cái sâu sắc, ẩn kín trong mỗi cá nhân nên trong rất nhiều trường hợp không thể kiểm định được một cách cụ thể. Thực vậy, về vấn đề này, tục ngữ Việt Nam có những triết lý: “Lòng sông lòng bể dễ dò, ai từng bẻ thước mà đo lòng người“; “Sông sâu, sào ngắn khôn dò, người khôn ít nói khó đo tấc lòng”, hoặc “Hoạ hổ hoạ bì, nan hoạ cất / Tri nhân tri diện, bất tri tâm” (nghĩa là: Vẽ được da hổ, khó vẽ được xương hổ/ Biết mặt người, không biết được lòng người).

Đặc biệt, đối với những người ma mãnh, tinh ranh, quỷ quyệt, độc ác…, tục ngữ Việt Nam cho rằng, rất khó có thể kiểm tra được đạo đức của họ. Những câu tục ngữ: “Dò sông dò bể dò nguồn, biết sao được bụng lái buôn mà dò”; “Sông sâu còn có kẻ dò, lòng người nham hiểm ai đo cho cùng”; “Sông sâu còn thể bắc cầu, lòng người nham hiểm biết đâu mà dò” đã diễn tả sự khó khăn không dễ vượt qua đó.

Và có lẽ, đây cũng là lời cảnh báo cho loài người trong đời sống hiện tại và cả trong tương lai rằng : Hãy cảnh giác ! Bởi những kẻ vô đạo đức nhưng lại biết che đậy thường không ngại làm những việc mà có thể gây cho người lương thiện không ít khó khăn, trở ngại; thậm chí, cả sự tổn thất, mất mát lớn nữa.

Nhưng, tôi cũng lại tin rằng, mãi muôn đời là vậy : “Cây xanh thì lá cũng xanh, cha mẹ hiền lành để đức cho con”- một triết lí chứa đựng ở nội dung câu khẩu hiệu thời hiện đại : “Ông bà, cha mẹ mẫu mực; con cháu thảo hiền”… Vâng, những cái gì từ nhân dân mà ra, do sức dân sáng tạo thì nó sẽ vô cùng chân chất, giản dị nhưng cũng thật vô cùng quí giá và sâu sắc. Hơn thế nữa, nó còn mang ý nghĩa giáo dục, hướng con người sống lương thiện hơn, chân thành hơn và tốt đẹp hơn. Tục ngữ, thơ ca dân gian Việt Nam là một loại hình như thế. Và vì vậy, nó muôn đời lấp lánh sáng, lung linh …

KHÁNH YÊN (TẠP CHÍ VĂN HÓA NGHỆ AN)

Thủy lôi và trận Bạch Đằng ở Biển Đông

Thủy lôi là loại vũ khí đầu tiên được sử dụng, khi xuất hiện các loại tầu hiện đại, trong đó đặc biệt là tàu ngầm. Dần dần, thủy lôi nhường vị trí đầu bảng cho ngư lôi và tên lửa chống tầu. Nhưng thủy lôi vẫn giữ được khả năng chiến đấu hiệu quả cho đến ngày nay.

Điều này đặc biệt với những nước có tiềm lực kinh tế – quân sự hạn chế, nhưng có vùng biển dài, rộng và có nhiều khả năng bị đe dọa quân sự từ hướng biển như khu vực Biển Đông của Việt Nam. Việc sử dụng các trận địa thủy ngư lôi đã có thời gian sản xuất từ lâu (từ 1964) có trang bị bổ sung những thiết bị dò tìm mục tiêu hiện đại, hệ thống nhận biết địch ta, thiết bị có khả năng tự kích hoạt hoặc kích hoạt theo tình huống sẽ là phương thức bảo vệ phi đối xứng hiệu quả nhất chống lại các lực lượng hải quân hiện đại. Bảo vệ thành công thềm lục địa, biển đảo.

Đối với các lực lượng hải quân có trang bị tàu ngầm, thông thường sử dụng các loại thủy ngư lôi như: Thủy lôi neo; Thủy lôi đáy; Thủy lôi phóng nổi trong vùng nước; Thủy lôi – ngư lôi ; Thủy lôi – tên lửa.

Thủy lôi neo PM-1 được sử dụng để chống tàu ngầm, được lắp đặt trong ống phóng ngư lôi 533mm (hai quả ) ở độ sâu đến 400m, độ chìm của thủy lôi là 10 – 25 m. Khối lượng nổ là 230 kg. bán kích cảm biến âm thanh bộ phận kích nổ là 15 – 20 m. Loại mìn neo PM-2 được biên chế vào trong hải quân từ năm 1965 sử dụng ăng ten cũng tương tự như PM-1, nhưng có khả năng tấn công cả tàu nổi và tàu ngầm ở độ sâu đến 900m.

Thủy lôi neo PM-1 và PM-2″

Loại mìn thủy lôi đáy MDM-6 được sử dụng để chống các tàu nổi và tàu ngầm. Thủy lôi được chế tạo thiết bị kích nổ phi tiếp xúc với 3 kênh cảm biến âm thanh, cảm biến từ trường và cảm biến thủy lực. Thủy lôi có trang bị thiết bị đặt thời gian trực chiến đấu, thiết bị phóng đại tín hiệu và thiết bị tự hủy. Đường kính ống phóng là 533m. Độ sâu đặt thủy lôi đến 120m.

Thủy lôi đáy MDM-6″

Thủy lôi tự chuyển động dưới đáy biển MDS được sử dụng để tiêu diệt các tàu nổi và tàu ngầm đối phương. Đặt rải thủy lôi MDS được tiến hành phóng ra từ ống phóng ngư lôi 533mm từ tầu ngầm. Thủy lôi tự cơ động đến vị trí đặt mìn bằng động cơ đẩy của ngư lôi. Thủy lôi được kích nổ khi mục tiêu tiến đến khoảng cách gần, kích hoạt thiết bị gây nổ từ trường hoặc sóng âm. Khu vực nguy hiểm có thể lên đến 50m. Thủy lôi có thể sử dụng để phong tỏa hải cảng đối phương, bí mật đặt trên đường hàng hải của địch hoặc bảo vệ bờ biển, khu vực biển mooyj cách bí mật. Độ sâu đặt thủy lôi thấp nhất là 8m.

Thủy lôi tự cơ động đáy MDS

Thủy lôi neo và phóng mìn phản lực nổi RM-2 được sử dụng để tiêu diệt tàu nổi và tàu ngầm. Sử dụng ống phóng ngư lôi 533mm của tàu ngầm. Mìn bao gồm thân mìn và thiết bị neo. Trong thân mìn là động cơ phản lực nhiên liệu rắn. Thủy lôi được phóng về phía mục tiêu sau khi thiết bị kích nổ được kích hoạt bằng các trường vật lý phát ra từ tầu mục tiêu. Đồng thời có thiết bị kích nổ phi tiếp xúc khi chạm vào khu vực trường lực của mục tiêu. Đồng thời thủy lôi cũng có đầu nổ tiếp xúc thân mìn.

Thủy lôi phản lực RM-2

Thủy lôi chống tàu ngầm PMT-1 được biên chế vào Hải quân Xô viết vào năm 1972. Được chế tạo bao gồm thủy lôi có neo và ngư lôi loại nhỏ MGT-1 đường kính 406mm. Loại thủy lôi neo phản lực PMR-2 là tổ hợp thủy lôi neo với động cơ phản lực dưới nước. Bao gồm có ống phóng, tên lửa đẩy và neo. Động cơ phản lực hoạt động đẩy thủy lôi về phía mục tiêu khi thiết bị dò tìm mục tiêu đã xác định được mục tiêu dựa vào các trường vật lý xuất hiện ở tàu ngầm. Thủy lôi kích nổ đầu đạn bởi thiết bị kích nổ tiếp xúc hoặc kích nổ không tiếp xúc.

Thủy lôi chống tầu ngầm PMT-1

Thủy lôi thềm lục địa MSM được sử dụng để chống lại các loại tầu nổi và tầu ngầm trong khu vực ven biển. Thủy lôi là tổ hợp mìn đáy biển với động cơ phản lực tên lửa. Thủy lôi được đặt ngầm trong tư thế thẳng đứng. Thiết bị dò tìm sóng âm cho phép phát hiện và định hướng mục tiêu. Tên lửa đẩy phóng thủy lôi từ thân mìn. Thủy lôi được trang bị thiết bị kích nổ sóng âm phi tiếp xúc. Cho phép tấn công hiệu quả mục tiêu trong khu vực nguy hiểm. Đường kính thủy lôi là 533mm.

Không quá tốn kém, nhưng rất hiệu quả, việc phong tỏa một khu vực hoặc cả một vùng biển rộng lớn có thể tiến hành bằng cách rải thủy lôi, thiết lập những trận địa ngầm bí mật dưới lòng biển mai phục quân thù khi chúng xâm phạm biên giới hải đảo của tổ quốc. Với trí tuệ Việt, những vũ khí không thuộc loại công nghệ cao như thủy lôi vẫn có thể làm nên những trận Bạch Đằng Giang lừng lẫy trên Biển Đông nếu kẻ địch dám manh động, làm liều.

TRỊNH THÁI BẰNG (TIỀN PHONG)

Chính sách biển và hải quân Việt Nam dưới góc nhìn của người Nga

Về truyền thống, Việt Nam xưa nay vốn dĩ vẫn là quốc gia hải quân yếu và sự yếu kém này đã không chỉ một lần ảnh hưởng tai hại đối với an ninh quốc gia của Việt Nam.

Bài viết của Prokhor Yurevich Tebin, nghiên cứu sinh Viện Kinh tế thế giới và Quan hệ quốc tế, Viện Hàn lâm khoa học Nga.

Chiến hạm HQ-012 Lý Thái Tổ huấn luyện trên biển

Đông Nam Á là một trong những khu vực phát triển năng động nhất trong những năm gần đây. Có thể tự tin nói đến sự xuất hiện một trung tâm địa-chính trị mới của thế giới. Điều đó được quy định bởi sự tập trung tại khu vực này các tuyến giao thương hàng hải chủ chốt, các nguồn tài nguyên, dân số 600 triệu người và tiềm năng xung đột cao.

Tiềm năng xung đột được quy định một mặt bởi sự hiện diện của một số lượng đáng kể các mối đe dọa phi nhà nước (khủng bố quốc tế, cướp biển, buôn bán ma túy) và nội bộ quốc gia (bất ổn chính trị, các xung đột sắc tộc, tôn giáo chưa được giải quyết), mặt khác bởi sự đối kháng giữa các quốc gia, kể cả giữa một số quốc gia trong khu vực, lẫn các cường quốc ngoài khu vực.

Yếu tố chủ chốt của nền chính trị khu vực ở Đông Nam Á là sự gia tăng mạnh vai trò của đại dương thế giới. Eo biển Malacca và Biển Đông ở mức độ đáng kể bảo đảm cho sự tăng trưởng kinh tế trong khu vực, nhưng chúng cũng tạo ra phần lớn các nguy cơ đối với an ninh quốc gia và quốc tế. Chính các tuyến đường biển quy định vai trò lớn mà các cường quốc ngoài khu vực là Ấn Độ, Nhật Bản và Mỹ đang có ở đây. Không có gì ngạc nhiên khi các quốc gia trong khu vực đều “đã quay ra hướng biển” và dành sự chú ý ngày càng lớn cho chính sách biển.

Một trong các quốc gia then chốt ở khu vực lấy chính sách biển làm chỗ dựa là Việt Nam. Để phát triển kinh tế và bảo đảm an ninh quốc gia của một nước 90 triệu dân, việc phát triển tiềm năng biển nói chung và hải quân nói riêng sẽ là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất trong tương lai gần. Hơn nữa, sự phát triển sức mạnh hải quân của Việt Nam đã trở thành yếu tố quan trọng trong “ván cờ lớn” của ba gã khổng lồ Trung Quốc, Ấn Độ và Mỹ.

Hai tàu chiến uy lực nhất của Hải quân Việt Nam hiện nay, HQ-011 Đinh Tiên Hoàng và HQ-012 Lý Thái Tổ huấn luyện trên biển

Chính sách biển

Về truyền thống, Việt Nam xưa nay vốn dĩ vẫn là quốc gia hải quân yếu và sự yếu kém này đã không chỉ một lần ảnh hưởng tai hại đối với an ninh quốc gia của Việt Nam. Thời chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam, ưu thế trên biển hiển nhiên đã cho phép Mỹ tự do tiến hành chuyển quân và tấn công bờ biển miền Bắc Việt Nam. Năm 1974, sau một cuộc va chạm nhỏ giữa các tàu chiến của Việt Nam cộng hòa và Trung Quốc, Trung Quốc đã thiết lập quyền kiểm soát đối với quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam.

Trong cuộc chiến tranh Trung-Việt năm 1979, Việt Nam đã thể hiện được sức mạnh của lực lượng vũ trang của mình ở trên bộ và sự yếu kém trên biển, điều đó đã được bù đắp bởi sự hiện diện của một binh đoàn tàu chiến lớn của Liên Xô. Các chiến hạm Liên Xô đã bảo đảm nhiệm vụ bảo vệ bờ biển Việt Nam, giao thông vận tải của Việt Nam, cũng như kiềm chế hạm đội Trung Quốc. Các tàu Liên Xô cũng đã đóng vai trò lớn trong việc ngăn chặn Mỹ can thiệp vào cuộc chiến khi Mỹ duy trì sự hiện diện của cụm tàu sân bay do tàu sân bay Constellation dẫn đầu ở gần bờ biển Việt Nam trong 3 tháng.

Một trong những kết quả của cuộc chiến Trung-Việt là việc Hà Nội và Moskva ký kết hiệp định thành lập trạm bảo đảm vật chất-kỹ thuật của Hải quân Liên Xô ở Cam Ranh, căn cứ hải quân lớn nhất của Liên Xô ở nước ngoài. Tuy nhiên, năm 1988, hạm đội Liên Xô đã không thể trợ giúp Việt Nam trong cuộc va chạm mới giữa các tàu chiến Việt Nam và Trung Quốc ở bãi đá Gạc Ma, trong đó Việt Nam lại thất bại và Trung Quốc kiểm soát được một bộ phận các đảo của quần đảo Trường Sa.

Sau khi Liên Xô sụp đổ, Việt Nam đã có cách nhìn khác về sự cần thiết phát triển chính sách biển. Tấm gương điển hình đối với Việt Nam là trường hợp Singapore, quốc gia đã từ một mảnh đất nhỏ ở cực nam eo biển Malacca trở thành một trong những nước dẫn đầu thế giới về GDP trên đầu người nhờ phát triển hạ tầng cảng biển và thương mại đường biển.

Khác với Singapore, Trung Quốc, Thái Lan và Malaysia, Việt Nam có hạ tầng cảng biển cực kỳ yếu. Ba hải cảng lớn nhất của Việt Nam là Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng và Đà Nẵng thua xa Hongkong, Tanjung Pelepas và Port Klang của Malaysia, Laem Chabang của Thái Lan về doanh thu và chất lượng dịch vụ. Sự tụt hậu này có tác động tiêu cực tới khả năng cạnh tranh của kinh tế Việt Nam và cản trở việc phát triển khai thác dầu mỏ và các tài nguyên khác.

Năm 1999, Chính phủ Việt Nam đã công bố chương trình 10 năm phát triển hạ tầng cảng biển và nó đã chỉ được thực hiện một phần. Mặc dù vậy, Việt Nam đã tìm được một đồng minh chiến lược là đối tác lâu đời Ấn Độ, quốc gia từ thập niên 1990 đã phát triển học thuyết “Hướng đông” và đang muốn bám trụ ở Đông Nam Á. Mùa thu năm 2011, tập đoàn dầu khí Videsh của Ấn Độ và PetroVietnam của Việt Nam đã ký hợp đồng đối tác 3 năm trong lĩnh vực thăm dò, khai thác các mỏ dầu khí ở Biển Đông.

Việc củng cố quan hệ giữa Hà Nội và New Delhi đã làm cho quan hệ Việt-Trung căng thẳng hơn nữa. Tờ báo China Energy News của Trung Quốc đã đăng bài kêu gọi Ấn Độ và Việt Nam hủy hợp đồng dầu khí này và đe dọa không cho thực hiện hợp đồng,

Mặc dù cả hai nước đều có chung ý thức hệ cộng sản, Trung Quốc vẫn là mối đe dọa chủ yếu đối với an ninh quốc gia của Việt Nam. Sau hơn 30 năm đối đầu, sự căng thẳng trong quan hệ giữa Bắc Kinh và Hà Nội ở Biển Đông đang gia tăng. Các yêu sách chủ quyền của Trung Quốc đối với phần lớn Biển Đông, các quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa khiến cho Việt Nam ngày càng bất bình.

Ấn Độ cảm thấy ngày càng tự tin ở Đông Nam Á và vì Việt Nam họ sẵn sàng chấp nhận sự gia tăng căng thẳng nhất định trong quan hệ với Trung Quốc.

Một đối tác khác của Việt Nam trong cuộc đối đầu với các tham vọng của Trung Quốc trong khu vực là Mỹ. Sau khi Liên Xô tan vỡ, Hà Nội và Washington đã chủ trương vượt qua sự thù địch do chiến tranh để lại. Năm 2000, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ đã thăm Việt Nam lần đầu tiên sau chiến tranh. Năm 2010 và 2011, Mỹ và Việt Nam đã tiến hành đợt huấn luyện hải quân chung mà lập tức bị giới lãnh đạo quân sự Trung Quốc gọi là “không phù hợp”.

Xây dựng hải quân

Ban lãnh đạo Việt Nam nhận thức được rằng, Việt Nam không thể tham gia cuộc chạy đua vũ khí hải quân thực sự với Trung Quốc. Tuy nhiên, kinh nghiệm các cuộc xung đột trước đó cho thấy rằng, để bảo vệ các lợi ích quốc gia của mình, Việt Nam phải có tiềm lực hải quân đủ mạnh. Trong những năm đầu 2000, Hà Nội chủ trương xây dựng một hạm đội ven bờ hiện đại và có khả năng chiến đấu cao. Đối tác chính của Việt Nam trong lĩnh vực này là Nga và ở mức độ thấp hơn là Ấn Độ.

Theo cách tiếp cận của Việt Nam, hạm đội là dùng để bảo vệ lãnh thổ ven bờ và vùng đặc quyền kinh tế của mình. Việt Nam không cố gắng thiết lập ưu thế trên biển một khi xảy ra xung đột với Trung Quốc, nhưng dự định có được khả năng gây tổn thất đủ lớn cho đối phương và ngăn chặn Trung Quốc thi hành chính sách fait accompli (việc đã rồi). Đây sẽ là yếu tố kiềm chế quan trọng trong quan hệ Trung-Việt.

Ngoài đối phó với Trung Quốc, hạm đội Việt Nam phải có khả năng đối phó với các mối đe dọa trên biển phi truyền thống (buôn lậu, hải tặc, buôn bán ma túy…), cũng như sẵn sàng cho một cuộc xung đột ít có khả năng xảy ra song không thể loại trừ với một nước Đông Nam Á khác.

Theo các nhiệm vụ chính trị và quân sự được giao, Hải quân Việt Nam trong một thời gian dài thực tế chỉ là “hạm đội muỗi” với toàn tàu nhỏ, nay hướng đến thành lập một hạm đội tàu ngầm hùng mạnh, đóng các frigate hạng nhẹ và corvette hiện đại, cũng như các tàu xuồng trang bị pháo-tên lửa.

Tầm ngắm thông thường

Tàu ngầm Projekt 636 Varshavyanka

Dự án lớn nhất mà Việt Nam đang thực hiện trong lĩnh vực xây dựng hải quân là việc mua sắm từ Nga 6 tàu ngầm thông thường Projekt 636 Kilo.

Hợp đồng này được ký năm 2009, trị giá 1, 8 tỷ USD, tàu ngầm đầu tiên đã được khởi đóng tại Admiralteiskye Verfi ở St. Petersburg vào tháng 8/2010.

Nga cũng sẽ hỗ trợ xây dựng căn cứ tàu ngầm và hạ tầng đi kèm tại Việt Nam. Chi phí xây dựng căn cứ ước 1,5-2,1 tỷ USD.

Các tàu ngầm thông thường hiện đại được trang bị tên lửa chống hạm (các tàu ngầm Việt Nam nhiều khả năng sẽ được trang bị hệ thống tên lửa Club-S), là một trong những chủng loại vũ khí trang bị hải quân tối ưu nhất xét từ giác độ hệ số chi phí/hiệu quả.

Khi cần, Việt Nam sẽ có thể bảo đảm sự hiện diện thường xuyên của một số tàu ngầm ở ngoài khơi, điều này sẽ cho phép trong trường hợp xung đột tranh giành ưu thế cục bộ trên biển của Trung Quốc trong một thời gian nhất định.

Ấn Độ với hải quân sở hữu 10 tàu ngầm thông thường do Nga đóng cũng sẽ giúp đỡ Việt Nam khai thác tàu ngầm Nga và đào tạo các thủy thủ đoàn. Cũng cần lưu ý rằng, Hải quân Việt Nam còn có trong biên chế 2 tàu ngầm siêu nhỏ lớp Yugo mua từ CHDCND Triều Tiên vào năm 1997.

Tác chiến biển xa

Thành phần quan trọng thứ hai của hạm đội đổi mới Việt Nam là các tàu chiến lớp corvette hạng nặng/frigate hạng nhẹ. Năm 2011, Nga đã chuyển giao cho Việt Nam 2 tàu hộ vệ lớp Projekt 11661E Gepard 3.9 đóng tại Nhà máy Zelenodolsk mang tên A.M. Gorky theo thiết kế của Viện thiết kế Zelenodolsk (ZPKB). Hợp đồng này trị giá 350 triệu USD được ký vào năm 2006.

Các chiến hạm này trong biên chế Hải quân Việt Nam được đặt tên lửa HQ-011 Đinh Tiên Hoàng và HQ-012 Lý Thái Tổ, có lượng giãn nước 2.100 tấn và tốc độ tối đa đến 27 hải lý/h. Vũ khí chính của tàu là hệ thống tên lửa chống hạm Uran-E với cơ số đạn gồm 8 quả tên lửa chống hạm Kh-35E.

Chiến hạm HQ-011 Đinh Tiên Hoàng

Sau khi nhận được 2 tàu Gepard đầu tiên, Việt Nam đã chuyển điều khoản phụ của hợp đồng thành hợp đồng cứng, đóng thêm 2 tàu loại này. Khác với 2 tàu đầu tiên, các tàu này sẽ có vũ khí chống ngầm mạnh hơn.

Mùa thu năm 2011, có tin Việt Nam đang đàm phán với công ty Damen Schelde Naval Shipbuilding của Hà Lan về khả năng mua sắm 4 chiến hạm lớp SIGMA, loại tàu đang được đóng cho Indonesia và Morocco. Lớp tàu này có một số biến thể với lượng giãn nước từ 1.700-2.400 tấn.

Tàu hộ tống lớp SIGMA

Xét về tính năng và vũ khí, các tàu lớp SIGMA tương đương với Gepard của Nga, nhưng có giá cao hơn: tùy thuộc biến thể cụ thể, Việt Nam sẽ phải trả cho các tàu này 230-400 triệu USD/chiếc. Nếu hợp đồng sẽ được ký kết thì 2 tàu SIGMA đầu tiên dự định đóng ở Hà Lan, 2 tàu còn lại đóng tại Việt Nam.

Nhiều chuyên giá đánh giá khá thấp tiềm lực chiến đấu của các tàu Geparad và SIGMA khi chê trách các hệ thống chống ngầm và phòng không là yếu. Được đánh giá ngược lại lớp tàu corvette hạng nặng/frigate hạng nhẹ là các tàu ngầm thông thường và tàu xuồng tên lửa cỡ nhỏ. Tuy nhiên, các tàu chiến nổi biển xa cũng có hàng loạt ưu thế mà người ta thường không chú ý.

HQ-012 Lý Thái Tổ

Khác với các tàu xuồng tên lửa nhỏ, các tàu như Gepard của Nga có khả năng tiến hành tuần tra khá lâu ở khoảng cách khá xa bờ biển Việt Nam. Có trong tay 4-8 tàu chiến loại này, Việt Nam có khả năng bảo đảm sự hiện diện của 1-3 tàu ở Biển Đông. Kinh nghiệm đụng độ với hạm đội Trung Quốc năm 1974 và 1988 đã cho thấy rằng, các cuộc va chạm hải quân quy mô nhỏ có thể có những hậu quả chính trị lâu dài. Sự hạn chế về thời gian, lực lượng tham gia và tổn thất của cả hai phía của các cuộc đụng độ đó đã cho phép Trung Quốc thực thi thành công chính sách “việc đã rồi” mà không thèm chú ý đến cộng đồng quốc tế.

Việc Việt Nam sở hữu các tàu chiến biển xa hiện đại, được trang bị hệ thống tên lửa chống hạm uy lực mạnh làm tăng mạnh rủi ro đối với hạm đội Trung Quốc và làm giảm xác suất tiến hành một chiến dịch chóng vánh hiệu quả theo kịch bản năm 1974 và 1988. Hơn nữa, khác với tàu ngầm, các tàu chiến mặt nước là biểu hiện dễ thấy nhất của sức mạnh hải quân của quốc gia.

Các tàu ngầm có khả năng đóng vai trò then chốt trong trường hợp nổ ra xung đột, nhưng không phải là công cụ hiệu quả để ngăn chặn nó. Ta nên nhớ lại cuộc khủng hoảng năm 1977 xung quanh quần đảo Falklands/Malvinas, khi mà sự hiện diện của một tàu ngầm nguyên tử Anh đã không giúp gì nhiều trong việc kiềm chế xung đột và đã không thể ngăn chặn cuộc chiến tranh năm 1982.

Ngoài ra, đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, các chiến hạm mặt nước cỡ lớn là công cụ ngoại giao hải quân và phô trương sức mạnh quốc gia, cũng như là biểu tượng dễ thấy của uy thế quốc gia phục vụ tuyên truyền đối nội.

Hiện tại, Hải quân Việt Nam còn sở hữu 5 tàu hộ vệ lạc hậu Projekt 159 (3 tàu 159А và 2 tàu 159АE, HQ-09/11/13/15/17) mà Liên Xô chuyển giao trong thập niên 1960-1970. Các tàu này sắp tới chắc chắn sẽ bị loại khỏi biên chế hạm đội Việt Nam.

Hệ thống tên lửa bờ biển K-300P Bastion-P

Các tàu ven bờ và các hệ thống tên lửa phòng thủ bờ biển

Nền tảng của hạm đội Việt Nam là các tàu xuồng tên lửa cỡ nhỏ do Liên Xô và Nga đóng.

Trong những năm 1990-đầu những năm 2000, Hải quân Việt Nam đã mua của Nga 6 tàu tên lửa Projekt 1241RE (HQ-371-374/377/378), mỗi tàu mang 4 tên lửa chống hạm P-20M. Giá rẻ, khai thác đơn giản và sức mạnh hỏa lực cao của các tàu tên lửa Nga này đã tạo điều kiện cho việc ký kết vào năm 2005 hợp đồng lớn cung cấp 12 tàu tên lửa Projekt 1241.8. Hợp đồng này ước trị giá khoảng 1 tỷ USD.

Hai tàu đầu tiên (HQ-375/336) được đóng tại Nhà máy đóng tàu Vympel ở Rybinsk, Nga và được chuyển giao cho Hải quân Việt Nam vào năm 2007-2008. Từ năm 2010, Việt Nam đã bắt đầu đóng theo giấy phép một loạt 10 tàu loại này. Projekt 1241.8 có sức mạnh hỏa lực tăng mạnh so với các tàu Projekt 1241RE. Thay cho 4 tên lửa chống hạm P-20, Projekt 1241.8 được lắp 16 tên lửa chống hạm Kh-35.

Tàu tên lửa Molnya Projekt 1241.8 của Hải quân Việt Nam

Các tên lửa chống hạm Kh-35 của Nga là nền tảng tiềm lực chiến đấu của Hải quân Việt Nam. Loại tên lửa dưới âm nhỏ này có tầm bắn 130 km, còn biến thể hiện đại hơn là Kh-35UE có tầm bắn 260 km. Tên lửa chống hạm Kh-35 cho phép tác chiến hiệu quả chống các tàu chiến mặt nước có lượng giãn nước đến 5.000 tấn và các tàu hỗ trợ có lượng giãn nước đến 10.000 tấn của đối phương.

Năm 2004-2008, Tập đoàn Vũ khí tên lửa chiến thuật (KTRV) của Nga đã cung cấp cho Việt Nam 120 quả tên lửa chống hạm Kh-35E. Tháng 10/2010, Nga và Việt Nam đã ký hiệp định liên chính phủ về việc hợp tác phát triển và sản xuất hệ thống tên lửa Uran-EV trang bị tên lửa chống hạm Kh-35EV phục vụ riêng cho nhu cầu của hạm đội Việt Nam.

Bệ phóng tên lửa chống hạm Kh-35E / Uran-E trên tàu hộ vệ tên lửa HQ-012 Lý Thái Tổ

Cần lưu ý đến một thành phần quan trọng nữa của Hải quân Việt Nam – đó là  các hệ thống tên lửa bờ biển cơ động K-300P Bastion-P trang bị tên lửa chống hạm siêu âm hạng nặng Yakhont có tầm bắn đến 300 km do Tập đoàn công nghiệp quốc phòng NPO Mashinostroernia phát triển.

Hợp đồng cung cấp 2 hệ thống Bastion-P trị giá gần 300 triệu USD đã được ký vào năm 2005 và hoàn thành vào năm 2010-2011.

Có khả năng đến năm 2015, Nga sẽ bán thêm cho Việt Nam các hệ thống tên lửa bờ biển cơ động.

K-300P Bastion-P

Trong thành phần của hệ thống tên lửa bờ biển cơ động K-300P gồm có 4 xe bệ phóng lắp trên khung gầm xe MZKT-7930 (mỗi bệ phóng mang 2 tên lửa), 1 xe chỉ huy chiến đấu, các xe tiếp đạn. Bản thân các tên lửa được cất giữ trong các ống phóng kín, tạo điều kiện thuận lợi cho khai thác và tăng hạn sử dụng cho tên lửa chống hạm. K-300P có thể được tăng cường hệ thống phát hiện tầm xa ngoài đường chân trời và bám mục tiêu mặt nước Monolit-B triển khai trên bờ biển hoặc hệ thống chỉ thị mục tiêu lắp trên trực thăng.

Các tàu tuần tra và tàu pháo

Năm 1999-2001, Việt Nam đã tiến hành đóng 2 tàu tuần tra PS-500 (HQ-381/383) theo thiết kế của Viện thiết kế phương Bắc (SPKB) có lượng giãn nước gần 500 tấn. Các tàu lớp này có vũ khí tên lửa và pháo mạnh (tên lửa chống hạm Kh-35, các ụ pháo 76 mm và 30 mm) và có tính năng đi biển cao nhờ 2 ống dẫn tiến phụt nước mạnh và hình dáng thân kiểu chữ V sâu.

Việt Nam đang hoàn tất dự án đóng 6 tàu tuần tra Projekt 10412 Svetlyak do Viện thiết kế hải quân trung ương Almaz của Nga thiết kế. Các tàu nhỏ này có lượng giãn nước gần 400 tấn, dùng để thực hiện các nhiệm vụ bảo vệ bờ biển và  không được trang bị vũ khí tên lửa mạnh. Hai tàu đầu tiên (HQ-261/263)đã đóng xong năm 2002, 2 chiếc tiếp theo (HQ-264/265) hoàn thành vào năm 2011. Cặp tàu thứ ba đang đóng hoàn thiện tại Vladivostok, Nga và sẽ được chuyển giao cho Việt Nam trong năm 2012. Chi phí đóng 6 tàu này là gần 110 triệu USD

Hai tàu tuần tra lớp Projekt 10412 mang số hiệu nhà máy 044, 045 tại Nga
trước khi bàn giao cho Việt Nam ngày 20.10.2011

Tháng 1/2012, Hải quân Việt Nam được chuyển giao tàu pháo đầu tiên lớpTT400TP là HQ-272. Tàu này có lượng giãn nước gần 400 tấn, được trang bị 1 ụ pháo 76mm và 1 ụ pháo 30 mm. Tàu này do Nhà máy đóng tàu Z-173 thuộc Công ty đóng tàu Hồng Hà ở Hải phóng tự thiết kế. Dự kiến, Việt Nam sẽ đóng thêm ít nhất 2 tàu loại này. Tàu này được thiết kế dựa trên các thiết kế PS-500 và Projekt 10412 của Nga.

Tàu HQ-272 thử nghiệm trên biển

Năm 1979-1983, Hải quân Việt Nam đã nhận được 8 tàu tên lửa Projekt 205 (lượng giãn nước gần 200 tấn, vũ khí gồm 4 tên lửa chống hạm P-15 và 2 ụ pháo 30 mm) và 16 tàu phóng lôi Projekt 206 (lượng giãn nước gần 150 tấn, vũ khí gồm 4 ống phóng lôi 533 mm và 2 ụ pháo 30 mm). Các tàu này sẽ được loại khỏi biên chế.

Không quân hải quân

Nền tảng không quân hải quân của Hải quân Việt Nam là các trực thăng đa năng Ка-28 của Nga, dùng để triển khai trên các tàu hộ vệ Projekt 11661E Gepard 3.9. Chức năng chính của các trực thăng này là chống ngầm, ngoài ra còn có biến thể trực thăng radar phát hiện tầm xa Ка-31.

Năm 2010, Việt Nam đã ký với Công ty Viking Air của Canada hợp đồng mua 6 máy bay tuần tra hạng nhẹ DHC-6 Twin Otter. Các máy bay này sẽ được chuyển giao cho Hải quân Việt Nam vào năm 2012-2014. Hợp đồng có trị giá ước 30-40 triệu USD. Các máy bay này sẽ là thành phần quan trọng của hệ thống nắm bắt thông tin tình hình tại các vùng biển ven bờ của Việt Nam.

Máy bay tuần tra hạng nhẹ DHC-6 Twin Otter Series 400

Ngoài các chiến hạm thuộc các lớp cơ bản, Việt Nam còn sở hữu một đội tàu hỗ trợ, xuồng tuần tra  và tàu quét lôi mà việc đánh giá chúng chưa được thực hiện ở đây.

Như vậy, Hải quân Việt Nam đang trong tình trạng phát triển mạnh mẽ và quá độ từ một hạm đội ven bờ lạc hậu, không có khả năng bảo vệ thích đáng ngay cả vùng biển chủ quyền sang một hạm đội khu vực không lớn, nhưng hiện đại và đủ mạnh. Vào cuối thập kỷ này, Hà Nội dự định xây dựng được một hạm đội mà bản thân sự hiện diện của nó sẽ buộc Bắc Kinh kiềm chế, từ bỏ những mưu toan thiết lập thiết lập quyền kiểm soát đối với Biển Đông bằng vũ lực.

NHÂN VŨ (VIETNAMDEFENCE.COM)