Category: Chính trị – Quân sự
Ký sự Trường Sa: Trường Sa và người lính biển (Tập 2)
Ký sự Trường Sa: Từ đất liền tới hải đảo (Tập 1)
Huyền thoại cầu Hiền Lương
THỊ XÃ RA QUÂN 2/1979
Thị xã ra quân
Thị xã mình sáng nay ra quân
Tháng Ba đang mùa hoa gạo đỏ
Những phố, đường đêm qua như chẳng ngủ
Thức dậy sớm hơn mọi ngày
Những nhà có con đi sáng nay
Lục tục đỏ đèn từ mờ đất
Hàng xóm hỏi nhau thân mật
– Phố mình sáng nay mấy đứa ra đi?
Không giống ông bà mình tiễn nhau xưa kia
Chỉ lặng im, bịn rịn…
Không giống mẹ tiễn cha thuở nào đi trận
Bâng khuâng, thèn lẹn, dặn dò…
Thị xã mình sáng nay tiễn đưa
Cái háo hức nhân lên, niềm vui chia để lại
Con trai con gái
Nghe họ cười, không đoán nổi ai đi…
Ngã ba phố mình thênh thang mọi khi
Sáng nay ứ dòng xe cộ
Sáng nay đò sang bến chợ
Nhường cho khách lên đường
Mậu dịch bách hóa mở sớm hơn ngày thường
Đông con gái vào mua bút, sổ
Chị bưu điện luôn tay, lòng cởi mở
Trao tập phong bì và những con tem
Thị xã rộn lên
Chẳng ai biết tiếng loa nhắc gì trong hội trường nhà văn hóa
Cứ nghe rôm rả
Chuyện quân ta chống trả giặc thế nào
Đêm qua đài đưa tin biên giới rất lâu
Từ hôm tổng động viên bao nhiêu lá đơn gửi về Thị ủy…
Biên giới trở thành thiêng liêng trong suy nghĩ
Tiếng súng kéo khoảng trời gần hơn…
Chưa bao giờ máu gửi nhiều theo những lá đơn
Chưa buổi lên đường nào tình nguyện đông như vậy
Sông Đà tháng ba – mùa hoa gạo cháy
Đuốc non sông hừng hực lửa căm hờn
Tiễn những người con lên phía biên cương
Có tình thương trong gói cơm của mẹ
Có dáng tiễn đưa còng lưng của bà
Có cuốn sổ lưu niệm chật lời bè bạn
hẹn gặp cùng trên biên giới xa.
Và ra đi sáng nay tháng Ba
Có chàng trai bỗng đọc to bài Bình Ngô đại cáo.
NGUYỄN THỊ MAI
Từ pháo đài Đồng Đăng đến đảo Gạc Ma
Cái chết đến từ từ với những người lính rút về cố thủ trong pháo đài Đồng Đăng năm ấy. Họ đã nghĩ gì, họ đã làm gì trong những ngách hầm tối tăm, ngột ngạt vào những giờ phút cuối cùng của cuộc đời mình?…
![]()

Vệt buồn rộng dài thêm, từ đó, từ đây, đến với một địa danh khác, liên quan đến bài bút ký Lạng Sơn, có một góc nhìn của tôi viết vào tháng 8-2001. Trong chồng bản thảo cũ của tôi vẫn còn lưu bài bút ký ấy và hôm nay, xin trích lại một đoạn:
Cửa hầm phía Đông của pháo đài được khai thông vào năm 2001. Nhẩm tính xem: Nó đã là 20 năm kể từ khi bị đánh sập bằng hàng tấn thuốc nổ. Cùng với các cửa hầm, các lỗ thông hơi của pháo đài sâu hàng chục mét cũng bị bịt kín bằng đất đá. Những lô cốt nổi bê tông cốt thép dày gần nửa mét cũng bị đánh sập, nứt vỡ toang hoác. Dấu tích chiến tranh chưa bị cây cỏ che khuất phơi ra giữa thanh thiên bạch nhật trông thật dữ dội.
20 năm, nó bị lấp kín và trong lòng pháo đài lạnh lẽo tối om là những bộ hài cốt của bộ đội và nhân dân ta. Dưới tầng đất sâu của một quả núi nằm giữa thị xã Đồng Đăng, trong những đường hầm chặng chịt có bao nhiêu thi hài liệt sĩ? Hình như, chưa ai trả lời được câu hỏi nhức nhối đó. Pháo đài Đồng Đăng do Pháp xây, nghe đâu đã gần trăm năm, vốn đã bí ẩn lại càng bí ẩn hơn…
Cánh cửa sắt mở ra. Chân đi ủng, đầu đội mũ nhựa bảo hộ, chúng tôi đi vào đường hầm pháo đài theo sự hướng dẫn của Binh nhất Đàm Quang Thuấn. Đường hầm hẹp, hai người đứng hàng ngang đã chạm tay nhau và mái uốn vòm cong cong chỉ cao hơn đầu tôi vài đề-xi-mét. Vách và vòm xây bằng xi măng, trải qua gần trăm năm đã nứt nẻ chằng chịt. Có cảm giác chỉ cần dậm chân mạnh thì những mảng vữa ẩm ướt nhiều cạnh đó sẽ rơi xuống đầu mình. Có tiếng gì u u u u… không dứt đoạn trong lòng pháo đài. Như tiếng gió tháng Chạp thổi qua hẻm núi hẹp. Hơi lạnh phả ra rờn rợn. Từ mặt nước bập bõm ở đáy hầm. Từ vòm mái bê tông có vô vàn những giọt nước đọng tí tách rơi. Hay từ đâu nữa, hơi lạnh cứ lặng lẽ phả ra làm da mặt chúng tôi se se lại…
– Sắp đến gian hầm thờ các liệt sĩ mình rồi đấy! – Anh Mát nói khẽ.
(Đỗ Xuân Mát vốn là Trưởng Văn phòng đại diện Công ty Việt Bắc, người trực tiếp phụ trách bộ đội khai thông pháo đài)
Rẽ vào một ngách ngang, chúng tôi đến gian hầm rộng chừng 16 mét vuông, cao tầm 2 mét. Thành và vòm hầm xây bằng xi măng và ít nứt nẻ hơn. Chỉ có một chiếc bàn gỗ đặt mấy bát hương chi chít chân nhang và cái giá gỗ hai tầng lưu giữ mấy hiện vật của người đã khuất. Súng AK. Dao găm. Băng đạn. Dép rọ nam. Dép lê nữ. Vài chiếc cặp tóc phụ nữ. Tất cả đã cũ kỹ, gỉ sét. Giọng anh Mát ngàn ngạt:
– Trong lúc làm nhiệm vụ, bộ đội chúng tôi tìm gặp 35 hài cốt liệt sĩ. Từ cửa Đông của pháo đài đi xuống 29 bậc gặp một ngách ngang có 12 hài cốt. Đây là những anh em đầu tiên chúng tôi tìm thấy trong pháo đài. Anh biết không, các bộ xương nằm theo những tư thế khác nhau. Người nằm nghiêng, người nằm ngửa, người nằm thẳng, người nằm co. Có bộ xương xếp theo tư thế của người lết, hai cánh tay vươn về phía trước. Những bộ xương nguyên vẹn, chứng tỏ anh em ta bị hi sinh vì ngạt thở và đói.
Cái chết đến từ từ với những người lính rút về cố thủ trong pháo đài Đồng Đăng năm ấy. Họ đã nghĩ gì, họ đã làm gì trong những ngách hầm tối tăm, ngột ngạt vào những giờ phút cuối cùng của cuộc đời mình?… Thì hãy nhìn vào những bộ hài cốt đồng đội với những khẩu AK xếp bên cạnh sẽ hình dung ra phần nào hình ảnh người lính trong giờ phút cận kề cái chết. Những người lính ấy đã làm tròn bổn phận của mình và cái chết của họ là sự ra đi oanh liệt của người chiến sĩ bảo vệ Tổ quốc…
Và tôi thiết nghĩ rằng…ít nhất nơi cửa hầm vừa được khai thông vào mùa xuân đầu tiên của thế kỷ hai mươi mốt phải có một bia tưởng niệm khắc rõ dòng chữ: “Tổ quốc ghi công những chiến sĩ và đồng bào đã ngã xuống trong cuộc chiến đấu bảo vệ đất nước năm 1979”.
Một tấm bia ghi ơn và nhắc nhở đời sau. Một địa chỉ viếng thăm của người lên xứ Lạng. Mọi cuộc chiến tranh đều được chép vào lịch sử. Ai hi sinh vì Tổ quốc đều phải được ghi tạc công lao…
Nỗi buồn của nàng Tô Thị là có thật, giống như nỗi buồn từ các cuộc chiến tranh đưa lại. Trong người đàn bà hóa đá ấy có nỗi đau mất mát, nỗi chờ mong của rất nhiều phụ nữ Việt Nam. Bao nhiêu thế hệ trai tráng đất nước này đã ngã xuống để gìn giữ cõi bờ non sông. Máu đã chảy thành sông, xương đã chất thành núi; sông núi Việt Nam là tài sản thiêng liêng vô giá không ai có thể xâm phạm lấy đi của ta dù chỉ là tấc đất, mét nước. Trong mọi giá trị làm người, giá trị công dân thì lòng yêu nước luôn ở vị trí hàng đầu và trước tiên.
Yêu nước, dâng hiến và xả thân cho Tổ quốc là nhân phẩm của con người. Tổ quốc trên hết, đấy không phải là câu nói đầu môi chót lưỡi mà là tình cảm, là hành động của mỗi chúng ta. Tôi nghĩ, chúng ta không đem lòng yêu nước, lòng tự tôn dân tộc đặt lên nòng súng để kích động chiến tranh xung đột, nhưng khi Tổ quốc bị xâm lăng thì đó là vũ khí, là năng lượng có khả năng bùng nổ rất lớn của dân tộc này. Lịch sử đã minh chứng điều đó, dân tộc Việt Nam đã từng chiến đấu và chiến thắng những kẻ thù mạnh hơn ta gấp nhiều lần về kinh tế và quân sự.
* *
*
Lại có những nỗi chờ mong khắc khoải không hóa đá. Biết người thân không về, không bao giờ về nữa mà vẫn canh cánh nỗi đợi chờ giống sự mộng du. Biển Việt. Sóng vun lên những luống mộ trắng xóa. Nói là sóng bạc đầu đã đúng nhưng hình như chưa đủ khi biết rằng trong trắng xóa, mặn mòi của sóng đang trú ngụ những linh hồn bất tử. Bất tử linh hồn những người dân, người lính còn quần tụ ở Hoàng Sa và ở những đảo nổi, đảo chìm của Tổ quốc.
Tôi đã không cầm được nước mắt khi xem bức ảnh Trung úy Đinh Ngọc Doanh chụp với con gái mình. Bố chụp ảnh với con gái yêu đâu phải là điều gì lạ lẫm. Có hàng nghìn, hàng triệu tấm ảnh như thế, đen trắng và màu mè, đủ cả trên trái đất này. Trước mắt tôi là gương mặt điềm tĩnh hiền lành của người sĩ quan trẻ bên cái vẻ rụt rè ngây thơ của con gái chừng ba, bốn tuổi. Bé gái đã vĩnh viễn mất cha từ buổi sáng 14-3-1988. Một cuộc chiến đấu khốc liệt giữa những người giữ đảo với đội quân ăn cướp lãnh thổ đã xảy ra trong buổi sáng ấy. Gạc Ma.
Hàng loạt đạn 37 ly của bọn xâm lược bắn xối xả vào những người lính chúng ta khi họ còn dầm chân trong làn nước biển mặn chát. Không có một bờ đất, mỏm đá che thân, không hề có một đoạn chiến hào công sự nào. Điểm tựa duy nhất của những chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam lúc ấy là lòng yêu nước, lòng tự tôn, tự chủ, tự hào dân tộc. Thế thôi. Những con người Việt Nam bé nhỏ mong manh đứng giữa bao la trời nước, giương cao cờ Tổ quốc, lấy nền đỏ sao vàng quấn vào mình, một tấc không đi, một li không rời với tinh thần Thà hi sinh chứ nhất định không rời đảo. 64 chiến sĩ của chúng ta đã hi sinh trong trận hải chiến không cân sức đó, những Trần Văn Phương, những Đinh Ngọc Doanh… đã ngã vào lòng biển Việt, ngã vào cõi bất tử thiêng liêng của dân tộc.
Những vòng hoa lênh đênh trên sóng sẽ trôi về đâu trong mêng mang mây nước? Những hương khói ngạt ngào trên biển mặn có lay thức được bấy miên man đang trôi nổi bồng bềnh? Tôi tin, các anh sẽ nhận được tấm lòng thành của người đang sống và tôi cũng tin rằng, vong linh những người đã ngã xuống vì chủ quyền của đất nước vẫn hằng mong điều cao đẹp, trong sạch ở chúng ta. Và, như vậy là các anh đang sống, sống đẹp giữa lòng dân tộc, như là cuộc phục sinh huyền diệu nhất, bền vững nhất của những người yêu nước.
Nỗi đau, đó là điều không chối cãi và ta cũng không giấu giếm. Thì lòng tự hào chính đáng, khí phách ngoan cường cũng là năng lượng dồn góp lại cho sự trường tồn dân tộc xưa nay. Sẽ sống mãi, sẽ sáng tỏa mãi tinh thần vì nước quên thân có từ bao đời nay trong lịch sử dân tộc.
Pháo đài Đồng Đăng năm 1979, đảo chìm Gạc Ma năm 1988, những dấu mốc, những địa chỉ anh hùng trong cuộc chiến đấu bảo vệ chủ quyền đất nước, không thể lãng quên, không thể chìm khuất.
Tất cả những ai vì chủ quyền đất nước mà ngã xuống đều phải được tôn vinh, ghi công xứng đáng!
NGUYỄN HỮU QUÝ (BÁO BIÊN PHÒNG)
BA LẺ MỘT
Tác giả : Bảo Ninh
Mặc dù là truyện ngẫu nhiên nhưng mà có lẽ chả phải là truyện tình cờ . Bởi nếu không thì chúng tôi đã lướt về tới Nha Trang mới dừng chứ chả nghỉ vặt lại làm gì dọc đường . Và xe sẽ không đỗ đúng ngay trước cửa tiệm cà phê đầu thị trấn . Cũng sẽ không phải là bài hát ấy cất lên . Không nghe thấy bài hát ấy tôi đã không buồn bước chân vào tiệm . Tôi vào thì băng nhạc ngắt , nhưng rõ ràng là tôi đã nghe một bản quân ca chứ tuyệt nhiên không phải là những cái thứ nỉ non nhão nhoẹt đặc sản của hầu hết các quán xá phố huyện trong thời buổi văn minh ướt át này .
“ Lêkima “ , tên tiệm như vậy , trên tấm biển gỗ sơ sài . Một nhà gác nhỏ , hai tầng , mái ngói xạm mầu rêu . Quầy cà phê ở tầng trệt , gian giữa , nhưng chỗ của khách ở ngoài vườn . Một ai đó lúi húi sau quầy , tôi lên tiếng chào , gọi một tách đen và qua cửa sau đi xuống vườn .
Gió chiều lộng thổi , dào dạt sóng lá . Vườn rộng , xanh ngát , vú sữa và lêkima . Bàn ghế bằng mây kê rải rác dưới vòm cây xum xuê , bên những lối đi rải sỏi . Giờ này các bàn đều bỏ trống . Cả khu vườn chỉ một mình tôi với tiếng chim hót ríu rít trên cành .Đợi anh tài xế sửa xong xe chắc là còn lâu . Không chừng có thể làm được một giấc . Tôi thoải mái ngã người vào lưng ghế , nhắm mắt lại .
– Dạ thưa , cà phê của ông .
Tôi không nghe thấy bước chân đàn bà ấy . Rất khẽ chị ta đi tới , thật nhẹ để khay cà phê lên mặt bàn và se sẽ cất tiếng . Trên chiếc khay gỗ bày một bộ đồ uống cà phê kiểu đã xưa , rất đẹp , đĩa và tách bằng gốm , men màu lam vân trắng , phin và thìa mạ bạc . Thoang thoảng , đầm đậm hương thơm đặc trưng của cà phê , trè Buôn Ma Thuột .
– Gia đình ta có khu vườn tuyệt quá – Tôi nói , bầy tỏ sự hài lòng và nỗi khoan khoái .
– Dạ , cám ơn ông – Người đàn bà nói nho nhỏ , giọng Nam êm như nhung , lễ phép và dịu dàng – Xin mời ông bữa sau ghé lại tiệm chúng tôi , dùng cà phê , ngoạn cảnh chiều .
– Ồ vâng , dĩ nhiên . Nếu như còn có một dịp thứ nhì .
– Thưa , thị trấn này , ông mới một lần đầu ngang qua ?
– Vâng . Cũng gần như là lần đầu . Lần trước đã lâu lắm rồi . Đã hai mươi năm . Vả lại , ngày đó , thời cuộc gấp gáp , chúng tôi chỉ tiến ào qua , chỉ được vài phút dừng chân chốc lát .
Tôi có cảm giác người đàn bà như chợt sững đi vì điều tôi vừa nói .
Tôi nhìn chị . Có thể đoàn rằng tuổi chị đã gần bốn mươi , mặc dù chắc là chưa đến như vậy . Gương mặt gầy yếu , xanh xao , song vẫn còn giữ được nét đẹp phảng phất . Tôi ưa cặp mắt của chị , mở to , đượm buồn .
Gặp ánh mắt của tôi , chị ngại ngùng nhìn tránh đi , và không nấn ná thêm nữa , lặng lẽ quay vào nhà . Tôi nhìn theo . Bỗng đâu một cảm giác phi lí nhen lên , choán lấy tôi . Chẳng cần lục lại trí nhớ , tôi biết và chắc chắn là trước đây chưa từng bao giờ gặp chị ta , và chắc chắn là chưa từng quen ai có nét thoảng giống chị , thế nhưng lại cũng hoàn toàn chắc chắn như vậy tôi cảm nhận được ở chị một sự quen biết , thậm chí một tình thân mến , từ xưa . Tình thân ấy mang máng đâu đây trong buổi chiều nay giữa khu vườn này . Tôi lắng nghe và tôi nhìn xung quanh , nhìn lên cao . Bên ngoài các vòm lá , bầu trời đã ngả mầu hồng . Ngày đã tàn , thời tiết vẫn đẹp , càng đẹp hơn trước . Những đám mây cao và thưa nhẹ nhàng lướt trôi , mỏng dần và tan ra
Trong vườn , những ngọn gió khi lặng đi lúc lại dậy lên như cao trào của một bản nhạc . Một chiếc lá vú sữa nửa màu xanh nửa màu nâu nhạt bứt khỏi cành rớt xuống bên tách cà phê đang nhè nhẹ tỏa hơi . Chiếc thìa bạc kêu lanh canh . Lòng tôi xao xuyến lạ thường . Bỏ dở tách cà phê , tôi đứng vội dậy , rời bàn . Nóng lòng tôi muốn ngắm lại một lần nữa kĩ hơn dung nhan thân thuộc của người đàn bà không quen .
Không có ai trong nhà khi tôi từ ngoài vườn đi vào . Tôi tới bên quầy . Trên quầy để một máy quay băng , mấy trái xoài tượng , một cái bình xay sinh tố , các thẩu đường , những lọ cà phê và một hộp kính xếp đầy những giỏ thuốc lá . Ở trong góc tối phía sau quầy , trên tường treo một bức tranh . Tuy nhiên nhìn kĩ tôi lại thấy không phải là một bức tranh mà là một bức ảnh , được phóng to , lồng trong khung kính . Trong ảnh là một chiếc xe tăng . Và không phải M48 . Vì khuất tôi không nhìn được rõ nhưng tôi vẫn nhận biết rõ ràng dáng vóc một chiếc T54 um tùm cành lá ngụy trang . Vòng ra sau quầy , tôi lần tìm công tắc , bật đèn lên . Ánh điện bừng sáng và tim tôi như ngừng đập . Toàn , Trung và Chí , ba khuôn mặt ấy ngay trước mắt tôi . Hình đen trắng , khi chụp hơi bị ngược sáng lại đã úa vàng vì năm tháng nên nom không được nét , song chả còn hồ nghi gì nữa , đúng là họ , và đúng là nó , xe 301 . Đầu quấn băng , AK buông thõng trước ngực , Toàn ngồi trên nóc xe ,ôm lấy khẩu 12 ly 7 , hai người kia bá vai nhau ngồi tựa vào sườn tháp pháo . Số xe khuất sau lưng họ , chỉ ngôi sao lộ ra . Cả ba anh em đều còn rất trẻ , còn rất non nét mặt và dường như vậy mà có vẻ kém ăn ảnh , nhân dạng phần nào mờ nhòa , tuy nhiên bởi đều đã vào ảnh với nụ cười nên cả ba gương mặt đều như tự bừng sáng . Xúc động , cổ nghẹn lại , tôi run rẩy khắp thân mình , hồi lâu không sao trấn tĩnh được .
Nghe tiếng guốc đi xuống cầu thang song tôi không rời mắt khỏi bức ảnh . Người đàn bà tới bên quầy . Ngoài cửa ánh sáng chiều đã tắt . Căn phòng im ắng . Từ cõi nào xa xăm vọng đến tiếng còi tàu hỏa . Lát sau đoàn tàu rùng rùng băng qua cung đường gần thị trấn . Mặt đất nhè nhẹ rung lên . Chiếc đồng hồ treo tường thong thả đổ chuông . Tôi nhớ đến khúc quân ca nghe được lúc chiều khi vừa dừng xe . Thì ra …
Lòng khắc khoải bao nhiêu ý nghĩ và điều phỏng đoán , tôi chậm rãi xoay mình lại , đối diện với người đàn bà . Chị chống khuỷu tay lên quầy , áp mặt vào hai bàn tay . Một gương mặt thanh tú và khiêm nhường , một dung nhan dẫu tàn lụi đi mà không hề tàn héo , đôi mắt dịu hiền , rất to , lặng nhìn tôi .
– Chị biết không , thật kì lạ – Tôi nói , giọng ngập ngừng – Chiếc xe tăng trong bức ảnh kia chính là chiếc xe tăng của tôi , ngày xưa .
– Ơn trời – Chị thầm thì – Thế là cuối cùng các anh đã trở lại . Bởi vì anh đã đổi khác quá nhiều so với anh trong hình nên em không nhận liền ra anh . Nhưng anh à , bao năm qua , từ ngày đó đến giờ , em vẫn một lòng tin rằng nhất định các anh sẽ còn trở lại .
Ngày đó , năm 1975 , buổi sáng cuối cùng của tháng Ba . Thị trấn bờ biển chiều tối hôm qua còn nghẹn ứ một biển người vậy mà sáng ra đã hoàn toàn trống rỗng .
Không ai ngờ thời cuộc lật nhanh đến thế . Vừa mới phong phanh tin thất thủ Buôn Ma Thuột , còn bán tín bán nghi , đã nghe mạn Khánh Dương tiếng đại bác rền vang . Nguời từ cao nguyên chạy xuống ban đầu thưa thớt , về sau kìn kìn . Người ta bảo rằng quân dù đã được điều về giữ đèo Ma Đơ Rắc , họ sẽ chặn đứng Việt Cộng và rồi sẽ tái chiếm Đắc Lắc chỉ trong ngày một ngày hai . Nhưng chỉ trong ngày một ngày hai , vụ di tản chiến thuật đã trở thành cơn giãy chết vĩ đại . Thị trấn ngã ba nghẹn cứng hai luồng chạy loạn khổng lồ ập về theo hai ngả , quốc lộ 1 và quốc lộ 21 . Phố biển muôn thửơ bình yên ngập chìm trong khói bụi và hoảng loạn . Mặt đường đen đặc người và xe . Xe đò và xe nhà binh , đồ đạc và chiến cụ , dân thường bỏ quê hương và lính tráng vỡ mặt trận , như lũ lụt tràn bờ , như trời long đất lở . Gần cả tháng trời thị trấn triền miên trong quang cảnh đầy thú vật của cuộc đại bại . Chen chúc , xô lấn , giày đạp , chà xéo , đánh nhau , giết nhau , cưỡng hiếp và cướp bóc . Đến cuối tháng thì thật sự những ngày tận thế . Phòng tuyến trên đèo tan vỡ . Các Thiên thần mũ đỏ còn sống sót ôm đầu máu tháo chạy . Có những toán đông nghìn nghịt súng ống còn trong tay mà không còn giày , không còn áo , trần thùi lụi như đàn đười ươi ồ ồ tràn qua thị trấn . Tất cả đều đã điên lên vì khiếp sợ . Chạy , chạy và chạy . Muốn sống thì chạy đi . Mạnh ai nấy chạy . Giành đường mà chạy , dẫm lên nhau mà chạy . Tiền pháo hậu xung , đại bác quân Bắc Việt sẽ san bằng thị trấn . Chiến xa quân Bắc Việt sẽ cán nát tất cả . Và bộ binh Bắc Việt khi xung phong vào sẽ giết nốt , sẽ giết hết , giết tuốt mo , giết không còn một mống .
Buổi trưa , phi cơ từ biển ào vào bổ nhào ngay trên đầu thị trấn trút bom xuống Dục Mỹ để cản đường địch quân . Nhưng trận chiến vẫn từng giờ một xích gần lại . Cửa kính rạn vỡ , vôi vữa rơi lả tả . Chập tối , đạn pháo hú vang , từng loạt , từng loạt nã vòng qua thị trấn rót dọc xuống mép biển . Nửa đêm tiếng nổ thưa dần và tinh mơ thì bặt hẳn . Hừng đông mong manh chuyển dần sang buổi ban mai và ở xa thẳm ngoài khơi vừng dương đã nhô lên mặt biển . Trên bờ , ở ngôi nhà đầu thị trấn , ông chủ hiệu ảnh Lêkima và cô con gái của ông ngồi lặng im trong bóng tôi . Bên ngoài , ánh mai hồng ngời rạng , trong nhà tối như hũ nút . Cửa đóng then cài .
Cả hai cha con không chợp mắt , thao thức nghe tiếng sấm sét của quân đội cách mạng và nghe những hậu đội cuối cùng của quân Sài Gòn huỳnh huỵch tháo chân chạy qua trước cửa . Nỗi lo âu cồn cào nhức nhối ruột gan . Hồi giữa tháng khi còn có thể ra đi người cha lại chùng chình nghe ngóng , tiếc nhà tiếc vườn , tiếc kế sinh nhai
Tới lúc không thể do dự thêm được nữa thì cũng là lúc cảnh tượng của cuộc tùy nghi di tản trở nên quá độ kinh hoàng . Cô con gái xin cha để cô được ở lại . Thà chết còn hơn là phải dấn thân vào một lộ trình dã man đến như vậy . Hai cha con náu mình trong nhà . Bọn lính cướp phá tan hoang hai bên hãng xóm nhưng may phúc làm sao chúng chưa xông vào hiệu ảnh . Chúng bắn tấm biển Photo Lekima nhưng chưa bắn vỡ tường và chưa làm sập nhà . Tuy nhiên , nếu tình trạng hỗn mang kéo dài thêm nữa bọn kẻ cướp sẽ không bỏ qua ngôi nhà này . Nhưng mà nếu chúng biến đi thì họ sẽ vào . Họ vào thì trời ơi , sẽ ra sao ?
Trời đã sáng hẳn . Hình như có tiếng vạn vật thức giấc . Ì ầm như sóng biển xô bờ . Nhưng mà chẳng phải tiếng sóng . Tiếng động mới mẻ , xa xôi mơ hồ ấy không tắt mà cứ lớn dần lên và loang rộng ra .Rồi bỗng nhiên tất cả rung lên . Đất trời như rạn nứt .
– Trời đất ơi , chiến xa ! Tránh xa cửa , con ơi !
Tiếng kêu khiếp đảm bị tiếng gầm của động cơ xe tăng nuốt đi .
Chiếc thứ nhất rồi chiếc thứ hai , thứ ba … mũi đột phá xe tăng gần chục chiếc , T54 và K63 , như một cơn lốc bằng thép xé mặt lộ lướt tới với thần tốc kinh hồn , là phẳng mọi chướng ngại vật trên đường , nhằm hướng nam truy kích . Nhà cửa rung giần giật
Cả thị trấn điếng hồn , choáng đi trong tiếng rít của xích thép hòa lẫn với hơi dầu xả phùn phụt , tiếng tháp pháo nghiến ken két .Mặt đường tóe lửa , nứt ra , rền vang như gang vỡ .
Thị trấn được giải phóng trong vòng không đầy năm phút đồng hồ . Đoàn xe tăng lao tới , tràn qua và mau chóng mất hút phía trời nam . Sấm vang chớp dật rồi tất cả lại trở về trong buổi sáng mai êm ả dưới bầu trời trong xanh , cao vòi vọi miền duyên hải
– Nhưng mà hình như họ ngừng . Họ ngừng rồi ! Hình như ngay trước nhà mình đấy , con ơi !
Mà họ dừng lại thiệt , trời ạ ! Chỉ một chiếc nhưng mà tắt máy dừng ngay trước thềm Nghe huỳnh huỵch tiếng chân từ trên xe nhảy xuống đất . Những giọng xứ Bắc , nói oang oang . Họ to tiếng quát nhau . Rồi lại nghe rộ lên tiếng cười . Rồi choang choang tiếng gõ đập . Tò mò , quên cả sợ , cô gái tới bên cửa sổ vén màn nhìn ra . Thình lình , chiếc tăng rú lên , phụt khói đen ngòm , rồi như bị sặc nó nấc lên và tắt ngóm . Lại ồn lên tiếng quát tháo , tiếng la lối bực bõ . Nắp xe mở ra đóng vào sầm sầm . Mấy phút sau , xe khởi động lại . Cô gái bưng lấy tai . Nền nhà rung nảy . Không khí khét nồng mùi khói ma dút . Khi cô bỏ tay ra thì tiếng gầm gào hung dữ đã ngừng bặt , thế nhưng cô lại nghe những tiếng bước chân đi lên thềm . Cha cô mặt tái mét , vội vội vàng vàng bỏ trốn lên gác . Khiếp hãi , cô đứng nép vào góc . Tiếng gõ cửa dẫu dè dặt vẫn chẳng khác nào súng bắn . Những giọng nói từ bên ngoài ngưỡng cửa vẫn vọng vào rõ mồn một .
– Có ai đâu nào . Bác phó nháy nhà này hẳn là đã cao chạy xa bay .
– Nhưng tớ đảm bảo là vừa nãy tớ thấy thoáng có người từ cửa sổ nhìn ra mà lị . Để tớ tông cửa vào xem nào . Hay đấy là một thằng dù .
Sợ hết hồn nhưng không còn cách nào khác , cô gái đành khe khẽ thưa lên và đi nhanh tới bên cửa sổ , mở khóa rồi nhấc then ra . “ Xin kính chào quí ông “ , cô lí nhí
Hai ông ngoáo ộp đứng choán trước cửa tươi tỉnh cất tiếng chào đáp . Lần đầu tiên trong đời cô gái thấy tận mắt Việt Cộng . Một người vóc dáng cao lớn , đầu húi cua , súng đeo trễ trên vai , tay xách một cái can nhựa , người kia gầy gò , nhỏ thó , đầu quấn băng , súng lăm lăm trong tay . Cửa mở , thấy cô , anh ta vội chúc họng súng xuống . Bàn tay , gò má và bộ đồ trận của cả hai đều ám khói .
Họ nói xe họ bị sự cố phải dừng sửa , giờ sửa xong rồi , nhưng vì cạn hết nước uống nên trước khi xuất kích còn phải làm phiền gia đình một chút , mong thông cảm . Họ gọi chị xưng chúng tôi , lễ phép , nhã nhặn , gần như khách sáo khiến cô gái trẻ vừa bối rồi vừa phần nào cảm thấy an lòng . Cô mời họ vào . Cô bảo sau nhà có bể chứa nước mưa xin để tùy quý ông dùng , lấy bao nhiêu cũng được , tắm gội nữa , tha hồ .
Nhưng họ nói chỉ xin nạp một can đủ dùng thôi , chứ tắm táp gì được , thời gian không có , vả chăng sạch sẽ mấy ngồi vào xe thì chỉ một lát là lại đen nhẻm . Những người lính này mặc dù súng ống lịch kịch , mặc dù bụi bặm và nhàu nhĩ , thế nhưng chẳng hề có vẻ lính tráng như cô vẫn thường thấy . Cô thấy họ rất lành , không sục sạo , không ngó nghiêng và không một mảy may lỗ mãng . Lấy đầy can nước rồi , tuy rất vội , họ không sùng sục bỏ đi ngay mà tế nhị ngồi nán lại vài phút bên bàn , từ tốn nhấp tách trà cô mời , ân cần hỏi han , trò truyện .
Chỉ là theo phép lịch sự nhưng rất mực thân tình . Họ khen đám vườn của cô tuyệt đẹp , khen cơ ngơi của cô trang nhã , khen trà cô pha ngon , khen những bức ảnh mẫu bày trong tủ kính . Họ nói không lâu nữa đại quân sẽ trẩy qua đây , bộ binh , xe pháo nườm nượp , nhưng đừng có sợ hãi , cứ thoải mái , cứ mở cửa tiệm , giữ lấy nếp sinh hoạt bình thường như mọi ngày . Đà tiến của quân ta sẽ mau chóng giãn tầm phi pháo của địch ra xa thị trấn này . Vả chăng , rất có thể chiến tranh sắp kết thúc . Không chừng ngay trong năm nay , thậm chí ngay trong mùa khô này cũng nên , biết đâu đấy , chúng tôi sẽ tiến thấu được đến mũi Cà Mau .
– Hết được chiến tranh rồi sẽ sung sướng biết bao – Anh lính nhỏ người , đầu quấn băng , ngả người ra lưng ghế , khẽ thở dài – Không còn bọn Mỹ , không còn bọn ngụy , không bom không pháo , đất nước thống nhất hòa bình , dẫu chỉ được sống chọn một ngày như vậy thôi rồi chết cũng đáng .
– Nói cái gì thế cái cậu này ! Cậu chỉ được độc cái tài nói gở thôi à ? – Người kia nhăn mặt , khẽ gắt .
– À , là nói thế . Chứ chết sao được . Đã đến ngày khổ tận cam lai mà lại chết thì thật hoài . Phải gắng sống để hưởng hồng phúc của thái bình chứ . Mai này , khi đã tàn trận mạc , tôi sẽ rời tay lái xe tăng chuyển ngành sang làm tài xế quốc doanh , vi vu dọc ngang cho đến già trên các ngả đường , ngắm Chủ nghĩa xã hội , ngắm đồng ruộng núi sông trời bể nước Nam cho đã bao năm ròng tút hút rừng sâu . Và nhất định năm nào tôi cũng sẽ qua đây , dừng thăm ngôi nhà này , thăm người quen hôm nay .
Không hoàn toàn hiểu những điều họ nói , cô gái ngồi im , khép nép , thỉnh thoảng khẽ dạ thưa , mắt nhìn xuống . Tuy nhiên , cung cách hiền hòa dễ mến của hai người khách đã làm vợi đi nỗi lo sợ . Tâm trạng căng thẳng trùng xuống , hầu như chẳng còn chút nào mối dè chừng và sự thủ thế . Thậm chí không còn lấy một mảy may ác cảm . Tự cô cũng thầm lấy làm lạ về sự nhẹ dạ của mình . Bao nhiêu những định kiến đã thấm sâu vào tâm trí , tưởng chừng bất biến , vậy mà cô đã rứt bỏ nhẹ nhàng như thể trút bỏ một tiếng thở phào . Chẳng những không hề là những tên cuồng sát , thấy người là giết thấy nhà là đốt , hai người lính này cũng không giống những nhân vật rắn như đanh , lòng dạ gỗ đá , đầu óc cứng nhắc , mặt mày thì khắc nghiệt , cử chỉ thì thô bạo , miệng lưỡi thì cục cằn , phách lối được gọi là Việt Cộng mà cô vẫn hàng ngày nghe thấy trên đài phát thanh và đọc thấy trên sách báo . Tuyệt nhiên chẳng có vẻ gì là một cuộc tẩy não , họ nói năng nhẹ nhàng mà thân ái , vui vẻ nhưng đúng mực , giữ lễ xã giao chủ khách .
Nhìn những vật dụng trong phòng , nhìn gói thuốc với hộp quẹt cha cô để trên bàn , cái gạt tàn đầy đầu mẩu , cái áo khoác đàn ông trên mắc áo , hẳn hai người lính Việt Cộng thừa biết hiện nay trong căn nhà này không chỉ có mình cô , song họ không hề căn vặn . Họ hỏi thăm song thân cô song thấy cô ngập ngừng họ không gặng . Thật tình cô không sao hiểu nổi nguyên do của nỗi ghê khiếp cộng sản đã ám ảnh và chế ngự cuộc sống của cha cô cũng như bao người khác nữa ở thị trấn này . Có cái gì thật vô lý và tức cười trong thái độ tột cùng hoảng hốt của cha cô khi nãy . Khiếp sợ đến nỗi bỏ cả con gái đấy để chốn chạy . Cô hình dung lúc này đây cha cô mặt mày xanh xám , náu mình trong một góc tối om trên gác , run cầm cập chờ tiếng chân Cộng Sản sầm sầm bước lên cầu thang .
Nhưng những người cộng sản còn đang bận công truyện của họ , Họ nhìn đồng hồ , thốt kêu lên , rồi vội vã đứng dậy , đeo súng lên vai , vội vội xin cáo từ và một lần nữa xin cảm ơn sự giúp đỡ của gia đình . Họ bắt tay cô .
Một người chỉ nắm nhẹ rồi buông ngay . Nhưng người kia giữ lại lâu hơn bàn tay nhỏ nhắn mềm dịu của cô trong bàn tay thô ráp của mình , lắc nhè nhẹ , và noi :
– Bọn anh là bộ đội chứ nào phải quý ông . Mai này gặp lại nhau nhớ đừng gọi bọn anh như vậy nữa . Nhớ nhé . Bọn anh nhất định sẽ trở lại . Anh sẽ chẳng bao giờ quên nơi này , chẳng bao giờ quên buổi sáng hôm nay . Buổi sáng hôm nay , quê hương em giải phóng , em hãy nhìn xem , đất trời tươi đẹp biết bao . Còn anh thì anh coi hôm nay là ngày đầu tiên sau bao năm trời xa cách được trở về quê hương . Quê anh ở bờ biển Quảng Ninh nên hễ cứ nơi nào bờ biển cúng đều là quê nhà . Vậy nên anh và em chúng mình là đồng hương duyên hải đấy .
Hai người buông tay nhau . Người lính chạy ra xe , cô gái đi vội vào nhà rồi lật đật chạy ngay ra , trên tay cầm chiếc máy ảnh . Xe tăng đã nổ máy , gầm lêm điếc óc , nhưng chưa lăn xích . Cô gái chạy xô tới đầu xe , hươ náy ảnh lên . Chiếc tăng dường như ngần ngừ do dự , động cơ vẫn rền rền song có vẻ dịu xuống . Nắp tháp pháo bật mở , lần lượt hai người từ lòng thép chui ra . Người thứ ba từ cửa buồng lái . Anh ta không tắt động cơ . Chiếc tăng rầm rầm nổ náy tại chỗ như hối thúc .
Cô gái không ham nghề ảnh nên rất ít khi rờ đến máy và chưa bao giờ cô thay cha chụp hình cho một người khách nào . Cô nhỏ bé , yếu ớt và run rẩy trước khối thép đồ sộ đang hừng hực phả hơi nóng và rung lên giần giật . Phải bặm môi lại , gần như vận hết can đảm và lấy hết sức bình sinh cô mới bấm máy nổi . Không may , sáng hôm đó , cuộn phim trong chiếc Canon chỉ còn một kiểu . Bấm xong cái tách , hết phim . Sững người ngó chiếc máy , dường như mãi mới chợt hiểu , cô sực tỉnh , hớt hải kêu lên muốn át tiếng máy bảo bốn ông khách gắng chờ để cô vào nhà lấy máy khác chụp tiếp .
Nhưng khi cô ôm chiếc Kodak chạy lao ra , xe tăng đã gầm lên , tốc bụi mù mịt , chồm mạnh tới và lập tức lao xộc đi như thể chạy trốn cô . Cô đứng khựng lại giữa lòng đường . Chiếc T54 nhỏ dần , mặt đường vẫn rung chuyển nhưng tiếng gầm của động cơ nghe không còn hung dữ nữa , và càng lùi xa chiếc tăng nom càng hiền đi , trông giống như một lùm cây xanh , rung reo trong gió và lấp lánh trong nắng .
Những ngày giông tố qua mau , cuộc đời lật nhanh sang trang khác . Nuối tiếc kiếp xưa , nhiều kẻ quyết lòng trốn chạy khỏi quê hương , lên thuyền vượt biển , trong số họ có ông chủ hiệu ảnh . Cô con gái của ông một mình ở lại với ngôi nhà và vườn cây lêkima . Hiệu ảnh tuy còn đó , song không nhận chụp , chỉ mở thế để chờ trả ảnh cho khách cũ . Ngày lại ngày từng đoàn bộ đội trên đường hồi hương đã đi ngang qua thị trấn , thế nhưng chẳng ai dừng chân lại lấy ảnh . Nhiều năm trôi qua , khi mà ngay cả những người lính được giải ngũ sau chót cũng đã về đến quê nhà , bức ảnh chụp cỗ chiến xa vẫn mãi mãi là một tấm hình vô chủ .
Thời gian thấm thoát như thoi đưa . Cô gái trẻ măng ngày ấy đã thành thiếu phụ , lập gia đình , có con . Đời sống gian nan khắc khổ kéo dài suốt mười mấy năm trời sau chiến tranh khiến chị mau già . Chồng chị đã sớm từ giã phố nghèo để tìm vào Nha Trang kiếm kế sinh nhai dễ dàng hơn . Các con chị lớn lên cũng lần hồi đi hết . Rất muốn theo chồng con nhưng chị lại không muốn rời bỏ thị trấn . Đành lại một mình thui thủi một mình với ngôi nhà , chật vật sống tựa vào mảnh vườn . Trong nhà chẳng còn dấu tích nào nữa của hiệu ảnh , ngoại trừ tấm hình chụp chiếc chiến xa , chưa người tới nhận , ngày một úa vàng .
Ngày lại ngày , năm này qua năm khác , ngôi nhà xưa cũ vẫn đấy , mòn mỏi bên rìa lộ , như âm thầm ngóng trông một điều gì đó , không biết là điều gì , rồi sẽ đến trong dòng thời gian đang đều đều trôi chảy ngược xuôi không cùng tận trên đường . Cuối cùng thì cái sự kiện mơ hồ được bền bỉ ngóng trông ấy dường như đã thực sự bước qua ngưỡng cửa .Một trong những chủ nhân của chiếc xe tăng đã nhận ra chiếc xe tăng của mình .
Chỉ có điều , người đàn bà chủ tiệm cà phê đã lầm : Tôi không phải là một trong những người mà chị ngóng trông . Mặc dù là xạ thủ 12 ly 7 trên chính chiếc xe tăng trong ảnh , tôi không hề có mặt trong ảnh .
Đã trót lọt qua những trận chiến ác liệt trên đèo Ma Đơ Rắc , đã an lành vượt qua Dục Mỹ , tôi lại để bị thương ở cây số cuối cùng của đường 21 . Và ngu ngốc làm sao , lính xe tăng mà lại bị đốn bởi đạn súng trường . Chỉ độc một phát , bắn tù mù trong đêm tối , nhưng đúng lúc tôi nhoài nửa người khỏi cửa xe .Vết thương không nặng nhưng đủ để loại nhau ra khỏi vòng chiến hơn chục ngày trời .Nằm được mười ngày , tôi ôm vết thương tếch khỏi bệnh viện , nhặt một chiếc xe zép lùn nằm quăng bên vệ đường , lái hết tốc độ rượt theo vết xích xe tăng . Nhưng vào giai đoạn hành quân thần tốc ấy chậm một giờ là lỡ cả đời , huống hồ tụt hậu mất mười ngày như tôi .
Đuổi theo vết xích của 301 , tôi phóng ô tô qua Ninh Hòa , Nha Trang , Cam Ranh , rẽ đường 11 lên đèo Ngoạn Mục , rồi qua Di Linh , Đức Trọng về Bảo Lộc , về Lộc Ninh , và ngoặt gấp sang đông nhằm hướng Sài Gòn . 30 tháng Tư vẫn theo vết xe tăng , tôi qua Lăng Cha Cả vào phi trường Tân Sơn Nhất . Nhưng 301 của tôi hình bóng đã mịt mù nơi đâu trong buổi chiều mưa rơi ngày đại thắng .
Tôi đã trở lại Lăng Cha Cả , trở lại Cầu Bông , trở về tận Phan Rang , địa danh của những trận tử chiến bằng xe tăng trên đường tiến đánh Sài Gòn . Nhưng trời đất bao la , mặc cho tôi bền bỉ theo đuổi , 301 vẫn mãi mãi xa khuất khỏi tầm mắt của tôi .
Và như thế là đã hai chục năm trời rồi theo đuổi vô vọng cho tới buổi chiều hôm ấy .
Chẳng phải sự tình cờ , mà là một sự run rủi tuyệt vời của định mệnh đã khiến tôi bước vào vườn cây lêkima bên bờ biển Khánh Hòa . Cuộc đời có hậu đã cho tôi , một số phận lẻ một , khi đã luống tuổi , lúc đã xế tà vẫn còn đuổi kịp đà tiến công vũ bão của thời thanh xuân để gặp lại được số phận chung bốn anh em .
Chiều hôm ấy , trước bức ảnh xe tăng 301 , người thiếu nữ năm xưa , vụt sống lại với buổi bình minh của đời mình , đã không cầm được nước mắt . Và tôi cũng vậy , sau hai chục năm trời , lệ chiến tranh lại tràn mi .
CON GÁI ĐẢO TRƯỞNG VÀ CÁC ANH CHÀNG LÍNH TRẺ – Trần Đăng Khoa.
Truyện ngắn này không phải về đề tài Chiến tranh cách mạng, nhưng vẫn post lên để chúng ta thêm hiểu, thêm yêu người lính! “Không xa đâu Trường Sa ơi, không xa đâu Trường Sa ơi…”
Câu chuyện này kể về một cô gái. Nghe đồn cô đẹp lắm. Da trắng nõn. Môi ướt đỏ, gọn như một nét vẽ. Nói tóm lại, cô là Tiên giáng trần. Nàng Tiên có cái tên rất trần thế. Hà. Trần Thị Hà. Nhưng một người con gái đẹp như thế không thể là Thị Hà được. Thị Hà có gì khác Thị Nở. Nghe cứ ghê cả răng. Cánh lính đảo quyết định đặt lại tên cho cô là Mộng Hà. Thế rồi cả đảo gọi cô là Mộng Hà. Phải vậy chứ! Người trong mộng cơ mà.
Mộng Hà là con gái đầu lòng của đảo trưởng Thuận. Mới láng máng có thế, cánh lính trẻ đã tíu tít “tranh thủ” bố Thuận, kiếm chỗ “buông neo” cho đời bớt lênh đênh rồi. Đảo trưởng Thuận khoái lắm. Thế ra có con gái cũng hay. Vậy mà thằng cha nào lại bảo đẻ con gái không bằng con trai. Rõ thật ngu như bò! Thuận tủm tỉm cười. Nụ cười nửa vời, chỉ khẽ thoảng một chút ở bên mép, nhưng vẫn có sức mạnh của một anh bố vợ tương lai. Chả thế, đám lính trẻ xun xoe với anh ra mặt. Rồi, chẳng biết từ bao giờ, họ đã chuyển “thủ trưởng” lên ngạch “bố” một cách ngọt xớt. Cả hòn đảo tranh nhau gọi đảo trưởng Thuận bằng bố. Chỉ duy nhất có một người không chịu chấp nhận. Đó là Tư xồm.
Nói thế, không có nghĩa Tư là anh lính già. Nếu so tuổi thì cậu ta chỉ đáng em út của đảo. Nhưng lạy giời, Tư lại được trời phú cho bộ râu xum xuê giàu có. Hồi còn ở đất liền, bộ râu chỉ khẽ thoảng một vệt xanh mờ, khiến khuôn mặt cậu ta lúc nào cũng âm âm như bị khói ám. Nhưng ở đây, dưới vòm trời âm u, không tiếng gà, không bóng trẻ, người ta dần quên đi những cái dáng ong óng đầy huyền bí của các cô gái. Người ta cũng quên luôn cái vẻ trai tráng của chính mình. Bộ râu của Tư cũng bị bỏ quên nên tha hồ bành trướng. Chúng tranh nhau mọc. Sợi xỉa ra. Sợi quặp vào, nom xùm xoè, nghiêng ngửa như chùm dễ dại trắng phễu, cặn muối vểnh ra ngoài lợi nước. Một bộ mặt hoang vu rất khó xác định niên đại. Bởi thế cậu ta không có đủ sức dũng cảm để nhún mình xưng “con” trước một người thanh mảnh, tịnh không có một sợi râu. Mặc dù mái tóc thưa mềm của Thuận cũng đã có sợi vẩn lên, xâm xâm như bọt sóng. Nhưng trông anh vẫn chỉ như người trạc tuổi ba mươi. Có lẽ anh trẻ, nhờ lúc da mịn và mỏng, không ăn nắng, cứ chín ửng lên như da con gái dậy thì. Một người như thế lại là bố tiểu thư công nương xinh đẹp, một nàng tiên giáng thế. Hừ! Không thể tin được!
Nhưng dẫu Tư không tin thì tiểu thư công nương Mộng Hà cũng vẫn trở thành người thân của đảo. Chỉ tiếc, chẳng có ai được chiêm ngưỡng vẻ đẹp kiều diễm của nàng. Có lẽ cũng vì thế mà nàng càng trở nên lung linh, kì ảo. Ngày nào cánh lính trẻ cũng nhắc đến nàng, vanh vách kể về nàng. Cứ như họ đã từng quen biết nhau từ lâu lắm. Thoạt đầu, đảo trưởng Thuận còn lắc đầu nguầy nguậy. Nhưng cũng như thể tình yêu. Kẻ trốn chạy thường bị săn đuổi. Thuận bị “săn” tới tấp. Chỗ này “bố vợ”, chỗ kia “bố vợ”. “Bố ơi! Bố gả em Hà cho con nhé. Con xếp hàng trước đấy!”. “Con cơ! Thằng này chen ngang đấy! Bố đuổi nó ra đi!”. “Nhưng con có thẻ ưu tiên nhé!”. “Con thành phần cơ bản chính hiệu!”. Cứ thế, đảo cồn lên như có đám mổ bò. “Láo toét! Em nó còn bé lắm. Chúng mày phải để nó lớn đã chứ!”. Thuận tủm tỉm cười, nhưng khoé mắt lại ầng ậng nước. Anh không ngờ cô con gái rượu của mình lại trở thành niềm vui cho cả hòn đảo, nơi tưởng chẳng có gì để mà vui thú. Đừng trách bố nghe con! Rồi sau này con sẽ hiểu, sẽ tha thứ cho bố, tha thứ cho những người lính trẻ này!…
– Thôi, chúng mày ngủ đi! Khuya rồi đấy! Đêm nay đứa nào gác? Thằng Hai à? Gác cho cẩn thận nhé! Lớ ngớ là tao mách con Hà đấy!
Thuận trở về đài chỉ huy đảo. Sương biển xuống tê tê. Phía sau chòi quan sát đảo, biển bục lên một đám cháy lớn. Trăng đã mọc. Vài con ó biển giật mình, kêu oang oác trên thing không mờ mịt sương khói. Cánh lính đảo không ai ngủ được. Chuyện phiếm loanh quanh thế nào lại quay về em Hà. Ngày nào cũng chuyện em Hà. Đến nỗi Tư xồm, một anh chàng vốn đa nghi cũng đâm ra hoang mang, cứ ngỡ có cô gái như thế thật. Mà làm sao lại không có cô gái như thế. Dường như cô không có trong chuyện huyền thoại của lính mà đã xuất hiện thực trên hòn đảo này rồi. Chả thế mà, hòn đảo tự dưng đổi khác, nhiều anh chàng cục mịch bỗng trở nên đỏm dáng. Đến cả cậu Hai, người quanh năm vẫn khinh trời nước bằng tấm thân tồng tềnh như bà mụ nặn, giờ cũng “quàng” trong một bộ cánh nghiêm chỉnh khi có việc phải đến chỗ bố Thuận. Có chàng lính mò được con ốc non, cũng hì hụi gọt rũa, kỳ cạch làm thành cái bình hoa, rồi rón rén nhờ bố Thuận chuyển tặng em Hà.
Rồi đột nhiên thư Hà tới đảo. Ôi chao! Phải nói đó là một ngày náo nhiệt, chộn rộn. Lần nào tàu ra, đảo cũng như ngày hội. Huống hồ chuyến tàu này lại có thư của tiểu thư công nương. Nhưng thật oái oăm. Bữa đó biển động. Trời tối mù mịt. Bạt ngàn sóng bạc đầu. Sóng nổi trắng như mây. Tàu không cập mạn được, cũng không buông nổi neo. Sóng chồm lên cả nóc đài chỉ huy. Con tàu đành cắt sóng chồm chồm lượn quanh đảo. Chẳng có cách chi chuyển được hàng vào, mà cánh lính thì không thể “nhịn” thêm được. Phải cho anh em “ngửi” chút đất liền chứ! Tư xồm nhảy phắt ra mép cát, cởi cái áo yếm, phất lên trên không, rồi quay tròn ba vòng. ấy là tín hiệu để ngoài tàu mở máy hai oát.
– Thế nào hở các bố! “Đứt neo” hoàn toàn à?
– Chịu! “Đứt” trăm phần trăm rồi! “Phới” thôi. Không vào gần được đâu! Sóng dồi vào bãi san hô thì tan xác pháo.
– Thế thì chuyển thư đi – Tư quát vào ống nói – Chúng tớ không “nhịn” thư được, hiểu chưa!
Đám thủy thủ đành phải bóc thư, đọc qua máy thông tin hai oát… Đến lượt thư của bố Thuận thì cả đảo nháo nhác. Cánh lính trẻ tíu tít châu quanh cái máy thông tin đã vặn to hết cỡ.
– Cái gì! – Hai gào vào ống nói – Đọc đi! Đọc lại xem nào! Thư em Mộng Hà phải không?
– Không phải Mộng Hà, Trần Thị Hà!
– Khỉ! Mấy thằng phải gió! Em là Mộng Hà, chứ không phải Trần Thị Hà. Rõ chưa? Đọc đi!
– Bố ơi, con nhớ bố lắm. Nhưng con không khóc nhè như mẹ đâu. Hôm nào đài báo bão ngoài Trường Sa là mẹ lại khóc đấy. Con không khóc. Mẹ bảo, con cứ ngoan là bố sẽ về…
– Cái gì?
– Con cứ ngoan là bố sẽ về. Nghe rõ chưa? Dạo này con ngoan lắm. Con không quấy mẹ. Mí nữa đêm ngủ, con không có đái dầm, cũng không gác chân lên cổ mẹ nữa. Hôm nào bố về, bố nhớ mua cho con ba quả bóng bay như của cái Tèo…
– Ô hay, cái thằng này… mày… mày… bố láo! Ông thì cho một chưởng bây giờ… – Hai vùng tay tuyên bố – Mấy thằng toàn xuyên tạc. Chúng nó trêu bọn mình. Thôi, tắt máy!
– Không đâu. Anh em đọc chính xác đấy – Đảo trưởng Thuận kêu lên – Thư con Hà thật đấy! Nó vẫn hay đái dầm mà…
– Ơ kìa bố Thuận! Bố làm sao thế? – Tư xồm buột miệng gọi Thuận – Làm sao lại có chuyện như thế! Không! Không!…
CHUYỆN TÌNH ĐẠI ĐỘI TRƯỞNG
Đầu những năm 1970, những ai từng chiến đấu ở mặt trận Trị Thiên đều biết tiếng đại đội trưởng Đặng Trung. Tiếng tăm về chuyện đánh giặc của anh vốn rất lẫy lừng đã đành một nhẽ, đại đội trưởng Đặng Trung còn có một chuyện tình hi hữu đến mức cả mặt trận ai cũng phục sát đất! Chả là lúc đó đã hơn 30 cái xuân xanh mà đại đội trưởng họ Đặng ta vẫn chưa hề để mắt đến ai. Sự kiện ấy làm cho các “quân sư tình yêu” của đại đội đau đầu, nhức óc. Nhưng khốn khổ, hễ ai gợi về “chuyện í”, đại đội trưởng lại phẩy tay: “Trong 10 lời thề danh dự của quân nhân có ghi rõ: “Phải kính già, yêu trẻ, đứng đắn với phụ nữ!”. Chuyện yêu đương ư? Cứ nói toẹt ra tức là tán gái(!) Mà đã tán gái đích thị là không đứng đắn! Tớ kiên trì nguyên tắc không tán gái!
Vốn rất quý mến đại đội trưởng, chính trị viên Phạm Ngọc rỉ tai tôi: “Ông ấy có nguyên tắc, chúng ta cũng cần có nguyên tắc. Nguyên tắc của chúng ta là kiên trì vận động! Phải tìm cho ông ấy một ý trung nhân đặng mà gửi gắm tâm hồn!”. Thế là tranh thủ mọi lúc, mọi nơi, chúng tôi hết phân tích, giảng giải nỉ non. “Nước chảy, đá (ắt phải) mòn”, đại đội trưởng gật đầu vào một ngày đẹp trời: “Từ bỏ nguyên tắc sống của mình thật không nên chút nào. Nhưng, nể hai đồng chí quá! Thôi thì… quyết luôn!”. Vừa gặp dịp may, sau chiến dịch mùa khô năm ấy, đại đội về đóng quân gần trạm xá mặt trận. Trong trạm xá có một cô y sĩ tên là Đoan Trang. Chao ôi! Sắc nước, hương trời. Nàng lại rất thùy mị, nết na thục nữ. Anh Phạm Ngọc thầm thì với tôi:
– Năng khiếu “phụ vận” của cậu khá! Chớp thời cơ, cần nhanh chóng ra tay!
Vốn là cấp phó, còn trẻ, lại hay hăng máu vịt, tôi đồng ý liền. Suy đi, nghĩ lại thấy vẫn còn tí chút phân vân:
– Nhưng mà ý tứ của đại đội trưởng? Đại khái là cái tư tưởng chỉ đạo ấy?
– Chậc! – Anh Phạm Ngọc lắc đầu – ta tùy cơ ứng biến thôi, chứ cứ giáo điều theo ông ấy thì hỏng. Nói chung, ông ấy bảo cần nhất là thành phần phải cơ bản, trong sạch; rồi phẩm chất đạo đức phải tốt. Sau rốt mới tính đến chuyện hình thức! Tóm lại, là cần cái lý lịch trích ngang!
Tôi không nhịn được, phì cười. Mối manh thế này thà đi thẩm tra lý lịch quách! Cũng may, chuyện “ngoại giao con thoi” của tôi cũng suôn sẻ. Dễ thường do tiếng tăm của đại đội trưởng um sùm quá, nên nàng Đoan Trang ta xem chừng đã “kết” lắm rồi. Nàng nhận ngay lời hò hẹn của tôi (!) sáng chủ nhật sẽ đến gặp đại đội trưởng ở bờ suối Bùm Bum. “Bước đầu coi như thắng lợi”! Nghe tôi truyền đạt tinh thần cuộc gặp, chính trị viên Phạm Ngọc tuyên bố thế. Suốt ngày thứ 7, tôi và chính trị viên hiến rất nhiều sách cho đại đội trưởng. Nào nói năng phải tỏ ra thân mật ra sao, mắt mũi phải nhìn cho ra chiều âu yếm thế nào. Đôi khi cũng cần vài cử chỉ âu yếm, tỉ như vuốt hờ mái tóc nàng, hay cầm nhẹ tay nàng. Cầm nhẹ thôi, cấm bóp! Nếu bóp như các anh vẫn thường bắt tay lính là trật. Nàng sẽ đau, đã đau ắt nàng mất đi khí thế ban đầu. Đại đội trưởng ngồi im re.
Cuối cùng thì sáng chủ nhật cũng đến. Hai chúng tôi giúp đại đội trưởng chải đầu, sửa râu, lại chọn bộ quân phục mới cứng mặc vào. Đeo thêm khẩu K5 để “giải quyết khâu oai”! Xong đâu đấy, chúng tôi thấp thỏm tiễn đại đội trưởng thẳng tiến về nơi hò hẹn. Khi anh đi khuất, chắc chưa yên bụng, chính trị viên rỉ tai tôi:
– Ta phải bí mật theo dõi. Xem coi ông ấy ứng xử tình huống ra làm sao, để hôm sau còn rút kinh nghiệm, bổ sung!
Chúng tôi liền nhập đến một bụi cây cách chỗ hai người một khoảng cách nghe được họ nói, mật phục. Tiếng Đoan Trang mơ màng:
– Nắng đẹp quá anh nhỉ! Kìa thấy cả bóng chúng mình dưới dòng suối kia!
– Tôi đồng ý với nhận xét của đồng chí! Nắng đẹp thật! – Tiếng đại đội trưởng xác nhận – Nhưng lính đặc công chúng tôi lại thích trời mưa hơn. Trời mưa đột nhập căn cứ địch dễ ợt. Bọn lính địch chủ quan cứ ru rú trong hầm. Ta cứ bò vào, bò vào. Thế là thắng lợi!
– Anh đừng gọi em bằng đồng chí, nghe nó cứng quá! Tiếng Đoan Trang vừa nói vừa cười rúc rích – Hai đứa mình tâm sự với nhau cơ mà! Có phải họp hành, hội nghị gì đâu!
– Họp hành tâm sự đều thế cả. Tiếng đại đội trưởng hùng hồn khẳng định – Tôi, đồng chí đều là quân nhân. Mà đã là quân nhân nhất nhất phải nói và làm theo điều lệnh!
Nghe thế, tôi và chính trị viên cứ giật mình thon thót. Đang mật phục, chẳng thò cổ ra đại thí, đành nín nhịn mà chịu trận. Bỗng lúc đó không biết từ đâu một đôi chim cu gáy xập xè bay đến đậu vắt vẻo trên chạc cây ngay trước mặt họ. Đôi chim phớt lờ sự có mặt của hai người, cứ châu mỏ nhau mà “Gờ… rù, gờ… rù”. Nàng Đoan Trang kéo áo đại đội trưởng nũng nịu:
– Anh nhìn kìa! Ước chi chúng mình…
– ừ, ước chi… tôi mang theo khẩu súng cạc bin! Súng ngắn thì có đây, nhưng có được ngửi lông nó. Đồng chí không biết đó thôi ở đơn vị tôi có mấy đồng chí bị sốt rét không ăn uống chi được. Giá hôm nay tôi mang cạc bin đi, phải ít nhất cũng bắn được một con chim về nấu cháo bồi dưỡng cho anh em không! Tiếc thế là cùng!
Tôi và chính trị viên suýt ngất xỉu. Cô Đoan Trang, trời ạ, nàng vùng vằng đứng dậy, vùng vằng chạy đi. Đại đội trưởng chừng không hiểu ra làm sao, ngớ người một lúc rồi hớt hải chạy theo nàng. Vừa chạy, anh vừa khoát tay gọi líu cả lưỡi “Ơ, này đồng chí! Đồng chí… em! Tôi đã phát biểu hết đâu! Tôi có ý kiến thế này…!
Chuyện còn dài và li kỳ lắm. Chỉ biết rằng sau đó họ yêu nhau. Yêu say đắm yêu nồng nàn ghê lắm! Những lúc họ xa cách, tận mắt tôi đã trông thấy đại đội trưởng còn làm thơ tình tặng người yêu, lâm li vô cùng! 30 năm qua đi, chúng tôi đều đến cái thời “răng lợi bắt đầu… bay”. Mỗi lần đến thăm vợ chồng anh, tôi thường tếu táo nhắc lại câu chuyện tình hi hữu bên suối Bùm Bum năm nào. Vị đại tá về hưu hiền lành cười múm mím. Còn bà Đoan Trang thì nháy mắt với tôi rồi quay sang hóm hỉnh hỏi chồng:
– Vậy chứ, chú ấy kể có đúng không anh… đồng chí?
Vô danh trận mạc (tiếp 3)
Đêm ấy tôi ôm Lu ngủ. Nó thở phì phò và liếm vào mặt, cổ tôi. Không biết bằng cách nào mà nó đã chạy suốt hơn cả trăm cây số để đuổi theo đội hình tiểu đội. Hay là sự huyễn hoặc và số phận đã bày đặt ra thử thách nó và cả chúng tôi nữa, những con người bình thường đã gắn bó ở những thời điểm đặc biệt, trớ trêu của cuộc sống.
Sớm sau tỉnh dậy đã thấy Lu ngồi chồm chỗm bên cạnh. Nó đương ngắm tôi rất kỹ. Đôi mắt không như mọi khi, trìu mến. Tôi không thể hiểu được nó nghĩ gì. ánh mắt ấy, nếu là của con người, chắc hẳn để phán xét người khác. Nó suy nghĩ gì? Đôi mắt kia, nhìn tôi đăm đăm như muốn nói, muốn hỏi? Ba ngày sau, thành phố cao nguyên, kể cả sân bay, hoàn toàn về tay chúng tôi. Đó là trận đánh có tính then chốt, tạo nên sự sụp đổ quân đội địch như trò chơi Domino. Sau trận mở màn ấy, tiểu đội chúng tôi khuyết đi hai người. Họ bị bắn gục ngay trong nửa ngày đầu trận chiến. Anh Hạnh bị trọng thương phải đi viện. Thằng Hoàng lên thay. Nhận thêm ba tân binh từ Bắc mới vào. Rồi lại đánh cắt chéo xuống miền Trung. Không ai xua đuổi Lu nữa. Kể cả tay chính trị viên khó tính. Thế là Lu tham gia hầu hết các trận đánh. Tại Cheo Reo nó lập được chiến công nữa. Chúng tôi nhờ nó tìm được 16 trẻ, tám chín người lớn thoi thóp chờ chết trong rừng. Họ là đám người chẳng biết gì cả, chạy trốn chiến tranh lại đi lẫn vào đội quân rút chạy để rồi tán loạn, lạc trong rừng cao nguyên. Những tốp người Kinh có Thượng có… nằm cong queo bên một gốc săng lẻ đã toác môi vì đói và khát.
Tôi cứ đinh ninh là Lu sẽ theo tôi về tận Sài Gòn và sẽ ra thăm Hà Nội. Nhưng thực tế không thể như mong ước. Cửa ngõ Sài Gòn có phòng tuyến phía Tây. Địch ném bom ngạt bảy tấn xóa sổ cả một đơn vị. Chúng tôi vẫn tiến lên, đánh địch giằng co từ chiều tới tận cả ngày sau. Lu luôn luôn bám sát bên tôi. Chúng tôi bị cản lại trước một khoảng trống giữa hai khu nhà. Đạn cầy ngang hất dọc. Không khí khét lẹt, nung nóng bởi những đám lửa bất ngờ bùng lên. Tạm thời nằm xuống trước một khoảnh trống thì từ đâu hiện ra đứa trẻ ba bốn tuổi khóc ré và chạy ra giữa làn đạn của hai bên. Chẳng bên nào dám bắn cả. Nhưng không thể nằm chờ. Tôi bảo Lu tiến lên, như ngày nào nó ở hậu cứ, trên rẫy, càm bất cứ một vật gì khi tôi ra lệnh. Nó, người bạn trung thành và gan dạ vọt tiến qua bức tường đổ rồi cắt chéo đường ngắn nhất tiếp cận ngay đứa trẻ. Đúng khi nó sắp hoàn thành nhiệm vụ thì nó gục xuống. Nó bị ai đó bắn hạ. Bình thường, khó bắn trúng nó lắm, bởi nó nhanh vô cùng, di chuyển lắt léo hơn cả đạn. Nhưng lúc ấy, nó phải chậm chạp bò lùi, kéo đứa trẻ xuống rãnh sâu bên đường. Lu của tôi giật nảy người lên rồi nằm im…Thế là tiếng súng hai bên lại rộ lên, bùng sáng những đám lửa da cam.
Tôi cùng tiểu đội quay lại nơi Lu nằm tênh hênh bên cái lạch thoát nước bên đường. Để đứa trẻ có thể sống, Lu đã chết. Nó đã chết. Viên đạn cày trên đường, xuyên vỡ nát bả vai và phá tung lồng ngực nó. Máu ướt thẫm mặt đường nơi nó nằm xuống. Bốn chân duỗi ra, buông xuôi. Đôi mắt khép lại như ngủ. Chắc chắn, nó không hiểu vì sao con người lại giết nó và ai đã bắn nó. Tại sao lại bắn nó? Đó là sự chủ định của một con người cụ thể hay là viên đạn định mệnh của chiến tranh dành cho một số phận chó.
Người ta chôn cất các chiến sĩ của đoàn tôi trên một khu đất cao. Cạnh đó chúng tôi đưa xác Lu tới và đắp một ngôi mộ nhỏ. Không ai dám ngăn cản chúng tôi làm việc đó. Bởi đã một tháng nay, câu chuyện của Lu trở thành huyền thoại trong biết bao câu chuyện của trung đoàn. Giống như các chiến sĩ đặc công, những người đã ngã xuống vào đêm đầu tiên mở màn cho chiến công Ban Mê Thuột; giống như tiểu đội bộ binh truy kích, chạy bộ mấy chục cây, chặn đứng toán xe đầu tiên của toàn bộ lực lượng địch tùy nghi di tản, giúp quân đoàn chúng tôi tiêu diệt toàn bộ sinh lực chính của địch trên cao nguyên, tạo nên sự kinh hoàng, rã đám toàn bộ lực lượng còn rất đông của quân lực Việt Nam Cộng hoà. Chúng tôi cắm một tấm biển gỗ và trên đó, tự tay tôi dùng bút dạ chiến lợi phẩm đề: “Lu. Tiểu đội Ba. Đoàn Bẩy Hai. Đã hy sinh ngày 16 tháng 4 – 1975.”
Vĩnh biệt, tôi bắn một loạt tiểu liên lên trời. Khói súng bay lên từ đầu nòng và tản ra rồi lững lờ lên cao. Tự nhiên mắt tôi nhòa lệ. Có thể vì nhòa lệ hay ảo giác, tôi thấy hình Lu trong khói súng. Nó đang phi…đúng hơn là phi tít lên trời xanh, hòa vào những đám mây lang thang của bầu trời tháng tư phía Nam mùa mưa.
Chúng tôi tiến vào Sài Gòn không có Lu. Chiến tranh chấm dứt.