ĐƯỜNG VÀO

Đường vào khu Bốn, vào Thanh

Không đi thì nhớ không đành, phải đi

Lắng nghe…như biển rầm rì

Đường ra tiền tuyến lắm khi giục lòng!

Đường đi vào đó miền trong

Đường về Nam ấy, ai mong cũng là

Đường về xứ Huế quê ta

Mấy sông cũng lội, mấy xa cũng gần…

Đêm nay trăng lặn cuối tuần

Còn thu hay đã lạnh dần hết thu ?

Gió se man mác sương mù

Mà nghe nóng rực chiến khu rộn ràng

Quân đi rung lá ngụy trang

Xôn xao như sóng trường giang trùng trùng

Đường ta đi, đẹp vô cùng

Nghìn năm luyện bước anh hùng đấy trăng?

Đường vui, không đợi mùa trăng

Ta đi, làm ánh sao băng giữa đời

Người đi, không thấy mặt người

Vẫn nghe ríu rít tiếng cười tuổi xuân

Chào anh bộ đội hành quân!

đêm có định dừng chân nới nào?

Giặc đang bắn giết đồng bào

Phải mau đến đó, phải vào tận kia!

Xóm làng đang dậy gà khuya

Đường xa gánh nặng ai chia với mình ?

– Đã cùng hai chữ tử sinh

Nào ai có nghĩa có tình, lại đây!

Tiếng ai hát đó đêm này ?

Nghe như chim sáng gọi bầy, hỡi em!

(24-10-1965)

Ê MI-LY,CON

Ê mi-ly, con đi cùng cha

Sau khôn lớn con thuộc đường, khỏi lạc…

– Đi đâu cha?

– Ra bờ sông Pô-tô-mác

– Xem gì cha?

Không con ơi, chỉ có Lầu ngũ giác.

Ôi con tôi, đôi mắt tròn xoe

Ôi con tôi, mái tóc vàng hoe

Đừng có hỏi cha nhiều con nhé!

Cha bế con đi, tối con về với mẹ…

Oa-sinh-tơn

Buổi hoàng hôn

Ôi những linh hồn

Còn, mất

Hãy cháy lên, cháy lên Sự thật!

Giôn-xơn!

Tội ác bay chồng chất

Cả nhân loại căm hờn

Con quỷ vàng trên mặt đất.

Mày không thể mượn nước son

Của Thiên Chúa, và màu vàng của Phật!

Mác Na-ma-ra

Mày trốn đâu? Giữa bãi tha ma

Của toà nhà năm góc

Mỗi góc, một châu.

Mày vẫn chui đầu

Trong lửa nóng

Như đà điểu rúc đầu trong cát bỏng.

Hãy nhìn đây!

Nhìn ta phút này!

Ôi không chỉ là ta với con gái nhỏ trong tay

Ta là Hôm nay

Và con ta, Ê-mi-ly ơi, con là mãi mãi!

Ta đứng dậy,

Với trái tim vĩ đại

Của trăm triệu con người

Nước Mỹ.

Để đốt sáng đến chân trời

Một ngọn đèn

Công lý.

Hỡi tất cả chúng bay, một bầy ma quỷ

Nhân danh ai?

Bay mang những B 52

Những na-pan, hơi độc

Từ toà Bạch Ốc

Từ đảo Guy-am

Đến Việt Nam

Để ám sát hoà bình và tự do dân tộc

Để đốt những nhà thương, trường học

Giết những con người chỉ biết yêu thương

Giết những trẻ em chỉ biết đi trường

Giết những đồng xanh bốn mùa hoa lá

Và giết cả những dòng sông của thơ ca nhạc hoạ!

Nhân danh ai?

Bay chôn tuổi thanh xuân của chúng ta trong những quan tài

Ôi những người con trai khoẻ đẹp

Có thể biến thiên nhiên thành điện, thép

Cho con người hạnh phúc hôm nay!

Nhân danh ai?

Bay đưa ta đến những rừng dày

Những hố chông, những đồng lầy kháng chiến

Những làng phố đã trở nên pháo đai ẩn hiện

Những ngày đêm đất chuyển trời rung…

Ôi Việt Nam, xứ sở lạ lùng

Đến em thơ cũng hoá thành những anh hùng

Đến ong dại cũng luyện thành chiến sĩ

Và hoa trái cũng biến thành vũ khí!

Hãy chết đi, chết đi

Tất cả chúng bay, một bầy ma quỷ!

Và xin nghe, nước Mỹ ta ơi!

Tiếng thương đau, tiếng căm giận đời đời

Của một người con. Của một con người thế kỷ

Ê-mi-ly, con ơi!

Trời sắp tối rồi…

Cha không bế con về được nữa!

Khi đã sáng bùng lên ngọn lửa

Đêm nay mẹ đến tìm con

Con sẽ ôm lấy mẹ mà hôn

Cho cha nhé

Và con sẽ nói giùm với mẹ:

Cha đi vui, xin mẹ đừng buồn!

Oa-sinh-tơn

Buổi hoàng hôn

Còn mất?

Đã đến phút lòng ta sáng nhất

Ta đốt thân ta

Cho ngọn lửa chói loà

Sự thật.

(7-11-1965)

Theo chân Bác

Nhớ lời Di chúc, theo chân Bác

Tháng nǎm ơi, có thể nào quên
Hàng bóng cờ tang thắt dải đen
Rủ giữa lòng đau. Ta nhớ mãi
Cuộc đời như ngọn lửa đầu tiên.

Tôi viết bài thơ mừng thọ Bác
Nǎm nay vừa tuổi tám mươi tròn
Chắc như thường lệ. Người đi vắng
Để mọi lời ca tặng nước non.

Tôi viết bài thơ cho các con
Mai sau được thấy Bác như còn
Phơ phơ tóc bạc, chòm râu mát
Đôi dép mòn đi, in dấu son.

Xin nhớ từ đây, nhớ lại ngày
Bác Hồ từ giã cõi hôm nay
Bảy mươi chín tuổi xuân trong sáng
Vào cuộc trường sinh, nhẹ cánh bay…

Lạ thay, sức mạnh của tâm hồn
Mắt vẫn tươi như suối tận nguồn
Tay nhịp cho đời cao tiếng hát
Trời thu xanh ngát sáng Tuyên ngôn.

Như thế, Người đi… Phút cuối cùng
Nhẹ nhàng, thanh tịnh, rất ung dung
Lời Di chúc gửi, êm bên gối
Quên nỗi mình đau, để nhớ chung.

Bác ơi!

Thôi đập rồi chǎng? một trái tim
Đỏ như sao Hỏa, sáng sao Kim!
Muốn òa nức nở bên em nhỏ
Nước mắt ta đành nuốt, lặng im.

Cứ nghĩ: Hồn thơm đang tái sinh
Ngôi sao ấy lặn, hóa bình minh
Cơn mưa vừa tạnh. Ba Đình nắng
Bác đứng trên kia, vẫy gọi mình.

Súng hãy gầm lên, nén xót đau
Hãy lau ráo lệ, ngẩng cao đầu!
Chỉ xin nhớ để lời đêm trước:
Đốt pháo hoa mừng, đến lễ sau.

Bác đi… Di chúc giục lòng ta
Cho cả muôn đời một khúc ca
Lẽ sống, niềm tin, mong ước lớn
Và tình thương, ơn nghĩa bao la.

*

Tôi trở về quê Bác, làng Sen
Ơi hoa sen đẹp của bùn đen!
Làng quen như thể quê chung vậy
Mấy dãy ao chua, mảnh đất phèn.

Thǎm lại vườn xưa, mái cỏ tranh
Thương hàng râm bụt, luống rau xanh
Ba gian nhà trống, nồm đưa võng
Một chiếc giường tre, chiếu mỏng manh.

Ôi sáng hè vui, Bác trở về
Vẫn không quên lối cũ, tình quê
Bạn xưa, còn nhớ khi câu cá
Nhớ quả cà ngon, nhớ gốc chè….

Nhớ những nǎm nao… Máu Cửa Rào
Thân yêu hai tiếng gọi “đồng bào”
Phận nghèo, nước mất, dân nô lệ
Đêm tối, trời mây, chẳng ánh sao.

Đã tắt lâu rồi, lửa nghĩa quân
Phan Đình Phùng đó, Tống Duy Tân
Nguyễn Trung Trực lại Hoàng Hoa Thám
Đầu dám thay đầu, chân nối chân!

Muôn dặm đường xa, biết đến đâu?
Phan Chu Trinh lạc lối trời Âu
Phan Bội Châu, câu thơ dậy sóng
Bạn cùng ai, đất khách dãi dầu?

Cha đã đi đày, đau nỗi riêng
Còn nghe tiếng gót nặng dây xiềng…
Mẹ nằm dưới đất, hay chǎng hỡi
Xin sáng lòng con ngọn lửa thiêng!

Từ đó, Người đi… những bước đầu
Lênh đênh bốn biển, một con tàu
Cuộc đời sóng gió. Trong than bụi
Tay đốt lò, lau chảo, thái rau.

Mở mắt trông quanh, màu sắc mới
Những bờ bến lạ, nước nông sâu
Á, Âu đâu cũng lòng trong đục
Vàng máu chia hai cảnh khổ giàu.

Muôn nỗi đời như ảnh trắng đen
Bâng khuâng đêm lạnh, thức bên đèn
Một hòn gạch nóng nung tâm huyết
Mẩu bánh mì con nuôi chí bền.

Bao nẻo người đi, bước trước sau
Một câu hỏi lớn: Hướng về đâu?
Nǎm châu thǎm thẳm, trời im tiếng
Sách thánh hiền lâu đã nhạt màu.

Gǎng-đi, quay lại chiếc xa xưa
Dệt tấm lòng nhân đựng gió mưa!
Nghiệp lớn, Tôn Vǎn vừa dựng đó
Trǎm nǎm tay lái vững vàng chưa?

Ôi nhân loại! Địa cầu cháy bỏng
Lò sát sinh ngập máu xương rơi
Lũ đế quốc như bầy quỉ sống
Nướng người ǎn, nhảy nhót, reo cười.

Bỗng sấm nổ, Rạng Đông chớp giật
Hoan hô Cách mạng tháng Mười Nga!
Tủ sắt ngai vàng quǎng xuống đất
Công nông ta làm chủ đời ta,

Xóm thợ Pa-ri nghèo cuối ngõ
Tưng bừng gác trọ đón bình minh
Mác – Lê-nin đến… Từng trang đỏ
Chân lý đây rồi, lẽ tử sinh!

Đứng dậy! Ơi Người cùng khổ ơi!
Tiếng chuông ta đánh, giục liên hồi
Hãy bay đi, hãy bay qua sóng
Về nước non xa, thức tỉnh đời…

*

Tháng Giêng, Mạc-tư-khoa tuyết trắng
Một người đi, quên rét buốt xương
Từ xa đến… Lòng đau trĩu nặng
Giữa dòng người im lặng trên đường.

Anh tìm ai? Lê-nin vĩ đại
Tinh hoa trái đất, chất kim cương
Con người đẹp nhất trong nhân loại
Trí tuệ, tình yêu của bốn phương.

Lê-nin ơi, Người Thầy, Người Cha
Niềm tin trong sáng mãi lòng ta
Đêm nay nằm đó, mà thanh thản
Vầng trán mênh mông tỏa chói loà.

Tưởng nghe tiếng Người vang giục bước
Hãy trở về châu Á trẻ trung
Hỡi người trai Việt Nam yêu nước
Thổi bùng lên ngọn lửa anh hùng!

Về phương Đông, ta về phương Đông
Cùng phương Tây, giương ngọn cờ hồng
Đi ta đi, anh em đồng chí
Chặt xiềng gông, chặt hết xiềng gông!

Chào Trung Quốc trào sôi sức sống
Chào Quảng Châu công xã chính quyền
Đất tươi tốt. Đây mùa gieo giống
Hỡi Thanh niên cách mạng, vùng lên!

Hồn Nước gọi. Tiếng bom Sa Diện
Trái tim Hồng Thái nổ vang trời
Máu thơm tưới mầm non xuân đến
Vui lại rồi, Tổ quốc ta ơi!

Bác về kia! Đảng đã ra đời!
Trải mấy phong trần tuổi bốn mươi
Tay Bác cầm tay đồng chí trẻ
Tiến lên! Thời đại giục chân người.

*

Ôi sức trẻ! Xưa trai Phù Đổng
Vươn vai, lớn bổng dậy nghìn cân
Cưỡi lưng ngựa sắt bay phun lửa
Nhổ bụi tre làng, đuổi giặc Ân!

Như thế, buổi xuất quân hùng vĩ
Chúng ta đi, quyết chí, tự hào
Đường Kách mệnh sáng ngời chân lý
Đảng cầm cương lịch sử lên cao.

Hãy nghe khúc nhạc đầu hùng tráng
Bản trường ca chiến đấu Việt Nam
Trống Xô-viết rung trời Cách mạng
Cờ búa liềm đỏ đất Hồng Lam!

Khủng bố trắng. Máu dầm mặt đất
Chật Côn Lôn, Lao Bảo, Sơn La
Muôn chiến sĩ, một lòng bất khuất
Chỉ thương người sương tuyết bôn ba.

Nguyễn Ái Quốc. Ôi tên tha thiết
Của đời ta. Người ở phương nào?
Gió ơi gió, ơi chim có biết
Một người tù cất cánh bay cao?

Ta lại dấn chân vào trận mới
Sóng người dâng ngập lối, biểu tình
Rầm rộ cuộc diễu binh vĩ đại
Vì tự do, cơm áo, hòa bình.

Và những ngày qua, những tháng qua
Thư về từng lá, ấm lòng ta
Đường dài nẻo ngắn, lời khuyên dặn
Trǎm nỗi buồn vui, việc nước nhà…

Chiến tranh nổ. Gần xa hùm sói
Cắn cổ nhau. Pháp bại, Nhật vào.
Thân một cổ hai tròng buộc trói
Phải vùng lên, này súng này dao!

Bắc Sơn gọi, Nam Kỳ nổi dậy
Sống một ngày hơn mấy mươi nǎm
Lửa cǎm giận sôi dòng máu chảy
Sức mỗi người bỗng hóa thành trǎm!

*

Chiều mùa thu ấy… Đến Diên An
Có một Hồng quân, tay nóng ran
Đẩy chiếc xe bò lên với bạn
Rồi đi…. Lần bước xuống phương Nam…

Ôi sáng xuân nay, xuân 41
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
Bác về… Im lặng. Con chim hót
Thánh thót bờ lau, vui ngẩn ngơ…

Bác đã về đây, Tổ quốc ơi!
Nhớ thương, hòn đất ấm hơi Người
Ba mươi nǎm ấy, chân không nghỉ
Mà đến bây giờ mới tới nơi!

Ai đã đến, ai chưa đến đó
Có hòn núi Mác, suối Lê-nin
Hãy về thǎm quê ta Pác Bó
Nơi Bác về, nguồn nước mới sinh.

Hỏi dòng khe ấy, hỏi tre lau
Những tháng ngày xưa…. Bác ở đâu?
Núi vẫn nghiêng đầu nghe vách đá
Hát cùng cây lá gió ngàn sâu…

Hát rằng:

Sáng ra bờ suối, tối vào hang
Cháo bẹ rau mǎng vẫn sẵn sàng
Bàn đá chông chênh, dịch sử Đảng
Cuộc đời cách mạng thật là sang! (1)

Hang lạnh nhớ tay Người đốt củi
Bập bùng lửa cháy suốt đêm thâu
Ai hay ngọn lửa trong hang núi
Mà sáng muôn lòng, vạn kiếp sau!

Ngày hội lớn. Trung ương quanh Bác
Lán tre vừa lợp, ấm tình thương
Lịch sử hôm nay, đầu ngọn thác
Gọi toàn dân cứu nước, lên đường.

Việt Minh, hai tiếng dậy chiến khu
Truyền khắp dân gian, đuổi giặc thù
Cây đá mừng reo theo mỗi bước
Sớm hôm xóm núi bóng Già Thu….

*

Lam Sơn dậy một vùng Núi đỏ (2)
Du kích quân rộn rã thao trường
Cao-Bắc-Lạng khơi dòng thác đổ
Chảy về xuôi, mở lối đại dương.

Lại thương nỗi: đọa đày thân Bác
Mười bốn trǎng tê tái gông cùm
Ôi chân yếu, mắt mờ, tóc bạc
Mà thơ bay… cánh hạc ung dung!

Xta-lin-grát. Đất trời vang động
Én thu sang. Mừng Bác lại về!
Hoan hô Đội Tuyên truyền giải phóng
Buổi ra quân, gươm nóng lời thề!

Già nào
Trẻ nào
Đàn ông nào
Đàn bà nào
Kẻ có súng dùng súng
Kẻ có dao dùng dao.
Thấy Tây, cứ chém phứa
Thấy Nhật, cứ chặt nhào!
Ào ào ào… ào ào ào
(3)

Đường tiến công, sông núi xôn xao
Bác đã về xuôi. Chào Đại hội
Tiến quân ca sôi nổi Tân Trào!

Tổng khởi nghĩa! Lệnh truyền đêm trước
Sáng quân ra giải phóng Thái Nguyên
Hà Nội, Huế, Sài Gòn, cả nước
Đứng lên ta giành hết chính quyền!

*

Việt Nam, ta lại gọi tên mình
Hạnh phúc nào hơn được tái sinh
Mát dạ ông cha nghìn thuở trước
Cho đời, hai tiếng mới quang vinh!

Hôm nay sáng mồng hai tháng chín
Thủ đô hoa, vàng nắng Ba Đình
Muôn triệu tim chờ… chim cũng nín
Bỗng vang lên tiếng hát ân tình

Hồ Chí Minh! Hồ Chí Minh!

Người đứng trên đài, lặng phút giây
Trông đàn con đó, vẫy hai tay
Cao cao vầng trán… Ngời đôi mắt
Độc lập bây giờ mới thấy đây!

Người đọc Tuyên ngôn…. Rồi chợt hỏi:
“Đồng bào nghe tôi nói rõ không?”
Ôi câu hỏi, hơn một lời kêu gọi
Rất đơn sơ mà ấm bao lòng!

Cả muôn triệu một lời đáp: “Có!”
Như Trường Sơn say gió biển Đông
Vâng, Bác nói, chúng con nghe rõ
Mỗi tiếng Người mang nặng núi sông.

Trời bỗng xanh hơn, nắng chói lòa
Ta nhìn lên Bác, Bác nhìn ta
Bốn phương chắc cũng nhìn ta đó
Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa!

Ta đứng đây, lẫm liệt đường hoàng
Như Thạch Sanh, khí phách hiên ngang
Lưng đàn, tay búa, tay giương nỏ
Chém Mãng xà vương, giết đại bàng.

Chúng đến đó. Cả bầy hùm sói
Pháp theo Anh, một giống thực dân
Máu đã chảy. Miền Nam đã gọi
Những chuyến tàu hối hả ra quân…

Ghê thay lũ ô binh thổ phỉ
Kéo vào ǎn, miền Bắc xác xơ
Nguy vận nước mong manh đầu chỉ
Sức toàn dân quyết giữ cơ đồ!

Bác Hồ thức. Nǎm canh không ngủ
Nghe phong ba gào thét đá ghềnh
Vững tay lái. Ôi người thủy thủ
Đã từng quen bốn biển lênh đênh!

Người trông gió bỏ buồm, chọn lúc
Nước cờ hay, xoay vạn kiêu binh
Lòng nhẫn nhục quyết không khuất phục
Yêu hòa bình, đâu sợ chiến chinh!

Giặc đã đánh. Thì ta quyết đánh!
Thà hy sinh tất cả, không nao
Lời Bác gọi, nửa đêm vang lệnh:
“Hãy xông lên, chiến sĩ đồng bào!”

Cả nước đáp một lời: Quyết thắng!
Phố phường giǎng chiến lũy, vươn cao
Xóm thôn dựng pháo đài, đứng thẳng
Tre thành chông, người hóa anh hào!

Trải chín nǎm trường, đi kháng chiến
Gót chân trơn càng luyện tinh thần
Con suối nhỏ cũng mang hồn biển
Mỗi đời riêng lớn giữa lòng dân.

Ta có Bác dẫn đường lên trước
Bác cùng ta, mỗi bước gian lao
Vui sao buổi hành quân nắng lửa
Bỗng gặp Người, lưng ngựa đèo cao…

Thương sao, sáng lên đường ra trận
Người đến thǎm ta, vượt lũ nguồn
Nhớ sao giữa chiến trường lửa đạn
Người đứng trông ta đánh diệt đồn!

Chống gậy lên non xem trận địa
Vạn trùng núi đỡ vạn trùng mây
Quân ta khí mạnh nuốt Ngưu Đẩu
Thề diệt xâm lǎng lũ sói cầy
  (4)

Ôi những chiều mưa đầm lá cọ
Bác vào, tươi mỗi lán lều con…
Bữa cơm muối, mǎng non bí đỏ
Tháng ngày vui có Bác mà ngon!

Nơi Bác ở: sàn mây vách gió
Sáng nghe chim rừng gáy bên nhà
Đêm trắng một ngọn đèn khêu nhỏ
Tiếng suối trong như tiếng hát xa

Tiếng hát xa đưa… Muôn tiếng hát
Điện Biên! Trời đất dậy tin mừng
Bác Hồ khẽ vuốt chòm râu mát
Gió sớm đưa hương ngát cả rừng…

Điện Biên! Lừng lẫy Việt Nam ta
Vang tiếng kèn vui gọi mọi nhà
Mời bạn gần xa ra tuyến lửa
Mở đường giải phóng Á-Phi-La!

*

Chưa vẹn tròn vui, đã sáng tươi
Đường lên hạnh phúc đỏ chân trời
Bốn nghìn nǎm cũ, bao mơ ước
Đã được hôm nay, rạng mặt người!

Chung sức lại, ơi anh ơi chị
Ruộng đồng ta, nhà máy ta đây
Chỉ hai tiếng thân yêu: đồng chí
Đã thương rồi, ấm những bàn tay.

Đơn giản vậy, cơm ǎn áo mặc
Của ta nay, nặng biết bao tình
Cả không khí, trời xanh miền Bắc
Cũng trong như lòng Bác thương mình!

Muôn dặm ta đi, mới bước đầu
Nhớ lời Bác dạy, dễ quên đâu!
Nước non còn nỗi đau chia cắt
Nam Bắc hai miền, ta có nhau

Giặc Mỹ ngông cuồng đã đến đây
Hắn thường đem súng dọa Đông Tây
Lương tâm quen thói vàng mua bán
Có chúng ta đây, diệt chúng mày!

Máu đọng chưa khô, máu lại đầy
Hỡi Miền Nam trǎm đắng nghìn cay
Hǎm lǎm nǎm chẳng rời tay súng
Đi trước về sau, đã dạn dày!

Hỡi Miền Bắc đó, nặng đôi vai
Gánh cả non sông, vượt dặm dài
Xẻ dọc Trường Sơn, đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai!

Ôi! đất anh hùng dễ mấy mươi
Chìm trong khói lửa, vẫn xanh tươi
Mưa bom, bão đạn, lòng than thản
Nhạt muối, vơi cơm, miệng vẫn cười.

Thời đại lớn cho ta đôi cánh
Không có gì hơn Độc lập Tự do!
Bốn mươi thế kỷ cùng ra trận
Có Đảng ta đây, có Bác Hồ.

Ta hiểu. Miền Nam thương nhớ Bác
Nóng lòng mong đợi Bác vào thǎm
Ta hiểu. Đêm nằm nghe gió gác
Bác thường trǎn trở, nhớ Miền Nam!

Ai nói giùm ta hết tấm lòng
Bác Hồ thương nhớ mỗi dòng sông
Mỗi hòn núi ở Miền Nam đó
Như thịt da ta rỏ máu hồng!

Bản đồ bên vách treo, không nói
In mãi bàn tay Bác chỉ đường
Tấm lịch ngày ngày nghe Bác hỏi:
Hôm nay, đâu thắng ở tiền phương?

Ơi anh Giải phóng chân không mỏi
Mỗi bước hành quân, mỗi chiến công
Có thấy ấm lòng nghe Bác gọi
Sáng đường, đôi mắt Bác hằng trông!

Các anh, các chị ở trong ra
Những đứa con yêu trở lại nhà
Có phải mỗi lần ta gặp Bác
Bác vui như trẻ lại cùng ta?

Ôi! nụ cười vui của Bác Hồ
“Miền Nam đánh giỏi, Mỹ thua to!”
Bác ơi! Con biết con chưa giỏi
Quét sạch đường đi, để Bác vô!

*

Còn những ai chưa được một lần
Trong đời, gặp Bác? Hãy nhanh chân
Tiến lên phía trước! Trên cao ấy
Bác vẫn đưa tay đón lại gần….

Bác vẫn đi kia… giữa cánh đồng
Thǎm từng ruộng lúa, hỏi từng bông
Ghé từng hợp tác, qua thôn xóm
Xem mấy trường tươi, mấy giếng trong….

Bác vẫn về kia… Những sớm trưa
Hỏi lò than, xưởng máy, giàn tơ
Hỏi anh hỏi chị công nhân ấy
Vàng ngọc thi đua được mấy giờ?

Ơi anh bộ đội trên mâm pháo
Mắt lượn trời cao, dõi bóng mây
Có thấy, bốn mùa, quên nắng bão
Bên ta, Bác vẫn thức đêm ngày?

Biết chǎng, hỡi mẹ rất anh hùng
Con mấy lần đi lập chiến công
Hỡi chị hằng trông ngày thắng trận
Bác khuyên thương nhớ vững bền lòng.

Và các em, có hiểu vì sao
Lòng Bác mênh mông vẫn dạt dào
Yêu nụ mầm non, yêu tuổi trẻ?
Biển thường yêu vậy sóng xôn xao…

Vì sao? Trái đất nặng ân tình
Nhắc mãi tên Người: Hồ Chí Minh
Như một niềm tin, như dũng khí
Như lòng nhân nghĩa, đức hy sinh.

Đâu chẳng vang lời Bác thiết tha?
Đời vui tiếng Bác ấm muôn nhà
Bác đi… Đâu cũng nghe chân bước
Như gió xuân về, đất nở hoa….

Nếu có hôm nào ta vắng Bác
Chắc là Người bận chuyến đi xa…
Ơi đàn em nhỏ quên ca hát
Hãy lớn ngoan như Bác có nhà!

*

Anh dắt em vào cõi Bác xưa
Đường xoài hoa trắng nắng đu đưa
Có hồ nước lặng sôi tǎm cá
Có bưởi cam thơm, mát bóng dừa.

Có rào râm bụt đỏ hoa quê
Như cổng nhà xưa Bác trở về
Có bốn mùa rau tươi tốt lá
Như những ngày cháo bẹ mǎng tre….

Nhà gác đơn sơ, một góc vườn
Gỗ thường mộc mạc, chẳng mùi sơn
Giường mây chiếu cói, đơn chǎn gối
Tủ nhỏ, vừa treo mấy áo sờn.

Máy chữ thôi reo, nhớ ngón đàn
Thong dong chiếc gậy gác bên bàn
Còn đôi dép cũ, mòn quai gót
Bác vẫn thường đi giữa thế gian…

Bụt mọc dầm chân đứng đợi ai (5)
Quanh hồ thấp thoáng bóng hôm mai
Ngọn đèn kia thức bên ai đó
Mà dạ hương còn phảng phất bay!

Ô vẫn còn đây, của các em
Chồng thư mới mở, Bác đang xem
Chắc Người thương lắm lòng con trẻ
Nên để bâng khuâng gió động rèm…

Con cá rô ơi, chớ có buồn
Chiều chiều Bác vẫn gọi rô luôn
Dừa ơi, cứ nở hoa đơm trái
Bác vẫn chǎm tay tưới ướt bồn

Ôi lòng Bác vậy, cứ thương ta
Thương cuộc đời chung, thương cỏ hoa
Chỉ biết quên mình, cho hết thảy
Như dòng sông chảy, nặng phù sa.

Như đỉnh non cao tự giấu hình
Trong rừng xanh lá, ghét hư vinh
Bác mong con cháu mau khôn lớn
Nối gót ông cha, bước kịp mình.

Ta vào thǎm Bác, gặp Lê-nin
Trán rộng yêu thương, dõi mắt nhìn
Người đến cùng ta, ngồi với Bác
Như hình với bóng, một anh linh.

*

Bác ơi!

Xin để Người yên giấc mộng say
Còn trời đất đó, nước non đây
Còn ba mươi triệu con Nam Bắc
Quyết thắng, bền gan, tay nắm tay.

Còn triệu anh em đồng chí đó
Bốn mươi nǎm Đảng, óc tim này.
Nhớ lời Di chúc, theo chân Bác
Lên những tầng cao, thẳng cánh bay!

Ngày mai, thống nhất lại non sông
Mẹ được gần con, vợ gần chồng
Ôi đến ngày ta vui sướng nhất
Thỏa lòng Bác lại trở về trông!

Đời sẽ tươi hơn, xây dựng mới
Đàng hoàng to đẹp, sáng trời Đông
Tuổi xanh vững bước lên phơi phới
Đi tới, như lòng Bác ước mong.

Đem ngày gần lại, đổi nǎm xa
Nghĩa lớn tình chung, vẫn ruột rà
Bốn biển anh em hòa hợp lại
Trǎm đường một hướng, nở muôn hoa

*

Bác ơi!

Tết đến. Giao thừa đó
Vẫn đón nghe thơ Bác mọi lần
Ríu rít đàn em vui pháo nổ
Tưởng nghìn tay Bác vỗ xuân sang…

TỐ HỮU (1-1970)

Hồi ức về chiến tranh Biên Giới phía Bắc của một người lính

Hồi ức về chiến tranh Biên Giới phía Bắc của một người lính

THÁNG 7 – 29 NĂM TRƯỚC

Ngày 6-7: Trung đoàn 149 đã bí mật hành quân đến vị trí mới. Tin đầu tiên cho biết quá trình hành quân cũng như bố trí đội hình phòng ngự ém quân an toàn. Hiện tại D7,D9 rải quân dọc chân phía bắc cao điểm 812, riêng D7 chỉ cách địch gần cao điểm 685 chưa đầy 1km. D8 phòng ngự ở hướng tây Cốc Nghè dưới chân bình độ 1200, nhiêm vụ đánh địch phản kích từ hướng 1509 xuống và làm thê đội 2 của trung đoàn 818 phối thuộc.

Sở chỉ huy trung đoàn 149 nằm trong một hệ thống hầm bê tông kiên cố nhiều hẻm nhiều ngách đặt trên cao điểm 812. Cao điểm 812 ( Cốc Nghè ) cách đường biên giới 3km đường chim bay, đối diện với 812 ở phía bắc có 772 và 685, riêng 685 là đối diện trực tiếp. Mắt thường trời trong xanh từ 812 nhìn sang có thể thấy địch sửa sang công sự, khiêng cáng bọn bị thương hoặc đang đi lại trên chiến hào.

Tại 812 ta có thể quan sát bằng ống nhòm rất rõ ràng mọi hoạt động của địch trên các điểm cao 685, 772, 1509 và bình độ 1200, 1300. Tại đây ta đặt đài quan sát, sở chỉ huy pháo binh và nhiều loại hỏa lực bắn thẳng như pháo 85 ly, 76,2 ly 37 ly và 12,7 ly…v..v. Dưới chân 812 về phía tây bắc là sở chỉ huy tạm thời của sư đoàn

Ngày 7-7: Trung đoàn 876 được lệnh hành quân chiếm lĩnh vị trí. Trời mưa tầm tã, những cơn mưa mùa hạ ở núi rừng biên cương xối xả ầm ào, khe suối nước chảy xiết. Dòng sông Lô nước đỏ phù sa hung dữ cuộn sóng, sông thượng nguồn nước càng chảy càng mạnh cuốn băng những cây rừng trôi dập dềnh trên mặt sông đỏ nước. Ni lon trùm kín người , ba lô, súng đạn đoàn quân lầm lũi đi trong mưa tiến từng bước khó nhọc theo hướng Cốc Nghè tới 772.

Ngày 8-7: Đường từ Làng Pinh đến Cốc Nghè công binh quân khu mới mở mặt đường rộng từ 4-6m có chỗ rộng tới 8m, con đường này được gọi là đường Tăng. Mấy ngày qua mưa nhiều mặt đường sũng nước, bùn dính bê bết lún sâu nhiều quãng dài có chỗ ngập đến đầu gối. Đội quân vận tải hơn một tuần nay đi, về xéo nát mặt đường, họ mặc quần đùi đi chân đất vì giày dép không trụ nổi. Nhiều quãng lầy thụt công binh phải chặt cây rừng lát lên mặt đường. Pháo cối của địch liên tục bắn chặn phá đường thành nhiều hố đạn pháo rộng hoác ngay giữa tim đường. Dọc hai bên đường cây cối sạt lở đổ ngổn ngang vì đạn pháo địch….Trung đoàn 876 tiếp tục hành quân .

Ngày 8 đến ngày 9-7: Tại sở chỉ huy sư đoàn ở làng Trung toàn bộ cán bộ chiến sỹ nhân viên phục vụ của 4 cơ quan và thủ trưởng sư đoàn ăn bữa cơm trưa tập trung tại ngôi nhà sàn của một gia đình người Tày, nhà này rộng rãi chứa hơn 1 đại đội. Mấy tuần nay ngôi nhà này làm chỗ nấu ăn, kho lương thực thực phẩm và là nơi tiếp khách của sư đoàn.
Bữa cơm trưa nay khẩu phần ăn được tăng lên, có cả rượu và được xem là bữa cơm liên hoan để đi chiến đấu. Đồng chí sư trưởng, đồng chí chủ nhiệm chính trị cùng chung mâm chung chén với các sỹ quan và binh sỹ, đang ăn thì bị pháo địch bắn tới rất gần nhiều người vội bỏ bát đũa đi sơ tán.

Chiều nay 9-7 nhận kế hoạch di chuyển sở chỉ huy sư đoàn lên phía trước. Quân số sở chỉ huy cơ bản ở 812 khống chế rất gắt gao. Phòng chính trị giới hạn 6 người kể cả đồng chí phục vụ, phòng kỹ thuật 2 người, phòng hậu cần 1 người còn lại số đông là cơ quan tham mưu bao gồm các đồng chí chủ nhiệm binh chủng, một số sỹ quan tác chiến, nhân viên điện đài cùng đồng chí chỉ huy trưởng và một tiểu đội vệ binh bảo vệ sở chỉ huy.

Số còn lại của 4 cơ quan đặt tại làng Pinh là sở chỉ huy phía sau, tại đây đồng chí thiếu tá Thành chủ nhiệm hậu cần làm tổng chỉ huy. Gọi là sở chỉ huy phía sau nhưng thực ra ở đây chỉ là một đầu mối chủ yếu cho công tác đảm phục vụ, đây là các kho hàng và là nơi dừng chân của một cung đường dài.

Việc chuyển quân của E876 đi vào giai đoạn kết thúc nhưng lại xẩy ra một việc trong ngày. Đơn vị cuối cùng là D1 và một số bộ phận còn lại của cơ quan E. Đội hình đợt 3 khá dài tính toán chưa chặt chẽ về thời gian nên khi qua ngã ba Cốc Nghè thì trời đã sáng rõ. Lệnh của sư trưởng phải dừng lại vậy là cả một đội hình của một tiểu đoàn phải nằm ngay trên quãng đường trống trải phơi lưng cho địch. Nhiều người lợi dụng các đoạn chiến hào, các vật che khuất ngụy trang kín đáo và cứ thế không nhúc nhích không động đậy trong suốt thời gian từ mờ sáng đến chập tối, kỷ luật thật nghiêm ngặt. Địch không phát hiện thấy gì, trời tối hẳn đơn vị lại tiếp tục hành quân…

Thắng Còng .

Lối em đi giờ ngược lối anh về

“Em không còn “ngược đường, ngược nắng để yêu anh”
Không những hờn ghen, bão giông, khắc khoải
Em trở về giữa bộn bề, mê mải
Lối em đi giờ ngược lối anh về.

Anh thẫn thờ nhặt nắng dưới cơn mưa
Đợi em về vẽ cầu vồng bảy sắc
Cơn mưa phùn nhạt nhòa nước mắt
Dáng em mờ nỗi nhớ xanh xao

Em sẽ không còn ngược lại nữa sao ?
Mà xuôi về chốn bình yên khác ấy
Bàn tay anh vẫn gầy biết mấy
Tấm lưng này không che gió nổi cho em

Anh lắng nghe tiếng thở của đêm
Tiếng em cười xa dần trong kí ức
Anh ngược về lục tìm trong thổn thức
Nông nổi một thời, nông nổi để mất em…”

Cơn ác mộng ‘Điện Biên Phủ’ của người Mỹ ở Khe Sanh

Trong suốt cuộc viễn chinh ở Việt Nam, giới quân sự Mỹ luôn mơ ước được dàn quân đánh nhau với quân chủ lực Bắc Việt Nam trên một mặt trận lớn, chấp nhận cả trường hợp chiến trường rừng núi như ở Điện Biên Phủ.

Nắm bắt được “nguyện vọng” này, Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam đã tương kế, tựu kế, mở mặt trận Đường 9 – Khe Sanh để hút và giam chân một bộ phận quan trọng chủ lực tinh nhuệ của Mỹ – Sài Gòn trên chiến trường rừng núi, tạo bí mật, bất ngờ và chia lửa cho các lực lượng cách mạng miền Nam trong tiến trình Tổng tiến công Xuân Mậu Thân 1968.

Khởi đầu như một đòn nghi binh chiến lược, chiến sĩ Khe Sanh cùng toàn mặt trận B5, đã áp dụng thế trận bao vây, đánh hiệp đồng binh chủng, tiêu diệt một bộ phận lớn sinh lực quan trọng, phá hủy khối lượng lớn phương tiện chiến tranh của Mỹ, ngụy, giải phóng một địa bàn gần một vạn dân. Đường 9 – Khe Sanh là một chiến thắng vang dội cả về chính trị và quân sự của Việt Nam cho đến ngày nay.

Sa bàn Khe Sanh trong Nhà trắng

Từ năm 1962, quân Mỹ và quân Sài Gòn xây một căn cứ không quân – lục quân ở một thung lũng hẻo lánh ở gần khu vực biên giới Việt-Lào, có ý nghĩa chiến lược do nằm gần tuyến vận chuyển “Đường mòn Hồ Chí Minh” nổi tiếng. Ở ngưỡng cửa năm 1968, tư lệnh Mỹ ở Nam Việt Nam, tướng Westmoreland, quyết định rằng cần phải “thả mồi ngon” lùa quân Bắc Việt vào bẫy, để buộc tướng Giáp phải đánh nhau theo cung cách quy ước, vốn là sở trường của quân Mỹ. Chiến dịch này mang tên Operation Scotland (1-11-1967/31-3-1968), nhận được sự tán thưởng của bộ sậu “diều hâu” ở Washington và Sài Gòn, Tổng thống Johnson cho đắp sa bàn Khe Sanh ở Nhà trắng và hằng ngày nghe “giao ban” về chiến sự ở đây. Vậy là, trong vành đai sắt dựng trên khu vực giáp giới với miền Bắc và Lào, ngoài hàng rào điện tử Mc Namara và hàng loạt căn cứ như Cửa Việt, Cồn Tiên, Đông Hà, Cam Lộ… Khe Sanh được kỳ vọng sẽ là “nam châm” hút quân Bắc Việt, để dùng ưu thế hỏa lực tiêu diệt trong một thế trận “Điện Biên Phủ đảo ngược”.

Cả Nhà trắng, Lầu Năm góc và Bộ chỉ huy viễn chinh Mỹ ở Sài Gòn (MACV) tập trung nghiên cứu chiến lệ Điện Biên Phủ (Hồ sơ nghiên cứu trận Điện Biên Phủ phục vụ riêng cho tổng thống Johnson dày hàng chục trang, trong tổng số vài trăm trang hồ sơ về trận Khe Sanh đã được giải mật). Cả MACV lẫn Bộ chỉ huy tối cao Hoa Kỳ đều đã nhận thấy Khe Sanh có một thế mạnh căn bản so với không chỉ với Điện Biên Phủ (ĐBP), mà với mọi pháo đài từng có trong lịch sử. Đó là Khe Sanh được hỗ trợ bởi hệ thống hỏa lực cực mạnh, chế áp độc lập từ bên ngoài, gồm hàng chục lần chiếc pháo đài bay B-52 đánh phá mỗi ngày (lấy từ kế hoạch Operation Arc Light, 1965-1973, theo hồ sơ mật Nhà trắng, các phụ tá quân sự đã nhiều lần trấn an Johnson về khả năng rải thảm ở mọi điều kiện thời tiết của B-52), gồm yểm trợ đường không cự ly gần bởi lực lượng khoảng 2.000 máy bay chiến đấu khác của không quân chiến thuật, không lực của hải quân, không lực của thủy quân lục chiến, với tần suất 500 lần chiếc ngày, hoạt động được cả trong điều kiện tầm nhìn zêrô (bay hoàn toàn bằng khí tài) cũng như ban đêm. Khe Sanh còn được yểm trợ bởi trực thăng: 3.300 chiếc (Operation Niagara II); các tổ hợp ra-đa kể cả loại tân kỳ như SKY SPOT; 16 bộ pháo tự hành trên xe xích “Vua Chiến trường” 175mm bố trí tại trại Ca-rôn ở gần Cam Lộ và trận địa trên đỉnh Rock Pile, 18 lựu pháo 105mm, 8 lựu pháo 155mm tại các căn cứ pháo binh tại Quảng Trị, pháo yểm trợ tầm trung từ trận địa bắc đèo Hải Vân… Được đặc biệt tin tưởng còn có đạn pháo 105mm COFRAM (Combined Ordinance Fragmentary Antipersonnel Munition) nổ từng tràng trên cao, văng vô vàn mảnh bao phủ một tầm sát thương rộng lớn, giống như bom bi (Cluster Bomb Unit), chủ yếu được để dành, nhằm tạo bất ngờ lớn một khi Khe Sanh bị tràn ngập; cũng như đạn pháo “tổ ong” (flechettes), khi nổ bắn ra muôn vàn mũi tên thép trong một hình nón 30 độ, rất hữu hiệu chống chiến thuật biển người… Bảo đảm kỹ thuật – hậu cần cho Khe Sanh, bao gồm tải thương bằng trực thăng (MedVac); và phương thức tiếp tế LAPES (thả dù ở độ cao tầm thấp) thực hiện bởi một cầu hàng không hiện đại, qui mô đến mức hoàn hảo trên các máy bay trọng tải lớn C-130, C-132. Oét-mô-len có thể đáp ứng cho Khe Sanh tới 600 tấn hàng tiếp tế/ngày, trong khi Na-va chỉ cung cấp được cho Điện Biên Phủ 100 tấn là cùng. Từ 19 đến 25 tháng Giêng, một hệ thống cảm biến điện tử hiện đại mang bí hiệu Muscle Shoals được triển khai quanh Khe Sanh để hỗ trợ cho các hệ thống trinh sát đường không và trên bộ. Còn phải kể đến lực lượng cơ động chiến lược gồm sư đoàn kỵ binh bay số 1 và sư đoàn không vận 101, đã hiện diện ngay trước Tết ở vùng chiến thuật I (CT1), để sẵn sàng từ ngoài đánh vào để cứu Khe Sanh. Tại cao điểm của chiến trường Khe Sanh, 15-3-1968, tướng Westmoreland tăng cường lực lượng cho vùng CT1 từ 38 tiểu đoàn Mỹ khi quân Bắc Việt Nam bắt đầu phong tỏa Khe Sanh lên 54 tiểu đoàn, tức là hơn một nửa số quân Mỹ viễn chinh ở Nam Việt Nam.

Tuy nhiên, trong số những người ở Washington tin tưởng rằng sẽ có một “Điện Biên Phủ” ở Khe Sanh, không phải nhân vật nào cũng nhất quyết rằng Mỹ chắc thắng được ở đó. Theo thư gửi Tổng thống ngày 10 tháng Giêng năm 1968, một đại diện cho khuynh hướng ngờ vực này phát biểu: “Điều đáng lo ngại là sự tập trung của bộ đội Việt Nam ở Lào chống lính thủy đánh bộ (LTĐB) đồn trú ở Khe Sanh. Tổng thống nên yêu cầu tướng Westmoreland cân nhắc lợi hại về việc rút khỏi Khe Sanh, nhất là khi đường 9 đã bị cắt… Tổng thống cần được yên tâm rằng, tướng Westmoreland tuyệt đối tự tin về khả năng đương đầu ở Khe Sanh; vì đây chính là cơ hội tốt nhất để một Điện Biên Phủ xảy ra. Mà kẻ địch thì đang tìm kiếm một trận Điện Biên Phủ”. Cho dù thông điệp đầu năm 1968 của Tổng thống Mỹ đầy khích lệ, nhưng mối lo ngại về cái dớp “Điện Biên Phủ” vẫn lơ lửng trong phòng bầu dục. Có lần, Johnson quay về phía các trợ lý quân sự và hét to “Quỷ tha ma bắt cái trận Điện Biên Phủ kia đi!”.

Trụ vững ở chân, nhưng lại “ăn” một cú vào đầu

Kể từ kỳ Giáng sinh 1967, tin tình báo dồn dập báo về. Hà Nội đã tiến hành một chiến dịch tiếp tế được hiệp đồng cực kỳ tốt theo Công văn báo cáo Tổng thống 22-1-1968 của tướng Gút-pa-xtơ. Cường độ vận chuyển, cả bộ lẫn thủy tại địa phận khu 4 của miền Bắc, cũng như của đường Hồ Chí Minh đã đột ngột tăng (trung bình mỗi ngày đêm, xe tải chuyển được tới 2.200 tấn hàng, gấp 8-10 lần so với trước, và đủ cung cấp cho một sư đoàn Bắc Việt trong điều kiện tác chiến trong 22 ngày – công điện báo cáo của DIA – tình báo quân sự Mỹ, ngày 19-1-1968). Trước đó, 11-1-1968, tổng hợp tin tức của CIA về mối đe dọa đối với Khe Sanh, phụ tá về an ninh của tổng thống báo cáo với Johnson về việc cộng sản “có vẻ đang sử dụng thời gian từ nay đến Tết để hoàn thành việc tập trung quân quanh Khe Sanh, chuẩn bị tiến công (căn cứ này) vào ngay sau Tết, bằng lực lượng “2 vạn quân… tương đương với 4 sư đoàn”.

Tướng Westmoreland lập tức phản ứng linh hoạt. 11 tháng Giêng, Westmoreland gặp tướng Cushman, tư lệnh quân Mỹ ở vùng chiến thuật I. Ngoài hai tiểu đoàn tăng cường LTĐB Mỹ hiện đóng ở Khe Sanh, kế hoạch tăng viện I sẽ là một tiểu đoàn LTĐB Mỹ đến nơi 8 giờ sau khi có lệnh, kế hoạch tăng viện II sẽ là một tiểu đoàn LTĐB Mỹ nữa, đến nơi 12 giờ sau khi có lệnh… Westmoreland cũng lệnh cho Cushman trong trường hợp khẩn cấp, điều theo thứ tự ưu tiên thứ nhất, một lữ đoàn của sư đoàn Americal vào khu vực Huế/Phú Bài. Thứ tự ưu tiên thứ hai, chuẩn bị tăng cường cho Vùng chiến thuật I tại các khu vực Huế/Phú Bài/Đà Nẵng, hoặc Chu Lai quân tiếp viện hoặc từ sư đoàn không vận 101, hoặc từ sư đoàn kỵ binh bay số 1. Các cuộc hành binh bổ trợ là lữ đoàn lính thủy đánh bộ Nam Triều Tiên đang di chuyển về Đà Nẵng và một số đơn vị của sư đoàn LTĐB số 1 đã tách ra để triển khai ở phía bắc đèo Hải Vân. Một số đơn vị của sư đoàn 3 lính thủy đánh bộ cũng đang tách ra để hành quân về tỉnh lỵ Quảng Trị. (Hồ sơ Nhà trắng, báo cáo của Westmoreland 12-1-1968). Điều trớ trêu là, thời hạn 31 tháng Giêng mà Westmoreland quy định phải điều động xong quân tăng cường cho vùng chiến thuật I (khu vực cận giới tuyến quân sự tạm thời và biên giới với Lào) lại chính là ngày sẽ đi vào sử sách phương Tây với cái tên là “cuộc tiến công Tết” đồng loạt nổ ra trên toàn miền Nam, gồm cả những nơi mà các đơn vị này vừa dời đi. Nhưng vẫn còn “may” cho Westmoreland. Vào những ngày ngay trước Tết, Weyand, tư lệnh Mỹ ở vùng chiến thuật III, một viên tướng gốc tình báo đã cảm nhận được những biến động quanh Sài Gòn, nhưng chủ yếu là do không thích đánh nhau ở rừng núi và biên cương. Ông ta đã xin được với Westmoreland đưa lực lượng cơ động quay về be chắn Sài Gòn. Trước giao thừa, 27 tiểu đoàn Mỹ đã trở lại tuyến phòng thủ Sài Gòn, còn 22 tiểu đoàn khác ở vành đai. Về sau Westmoreland sẽ ca ngợi đây là một trong những quyết định quan trọng nhất của cuộc chiến tranh Việt Nam. Còn các sử gia phương Tây thì cho rằng nếu hoàn toàn sập bẫy Hà Nội, đem đại quân đi càn quét vùng sâu vùng xa, Mỹ đã có thể mất Sài Gòn về tay Mặt trận Giải phóng trong dịp Tết Nguyên đán 1968.

Như để đáp lại “đơn đặt hàng” của Mỹ, chiều 20 tháng Giêng, quân Bắc Việt Nam đã khởi sự bằng pháo kích dữ dội bằng rốc-két (kachiusa) và cối vào căn cứ Khe Sanh. Kho đạn dược và kho nhiên liệu cho trực thăng nổ tung, đường băng cũng bị cày nát. Tướng Westmoreland viết báo cáo nhiều trang, cho thấy, vì dự liệu được cuộc tiến công này, từ đầu tháng, ông ta đã ban bố hàng loạt mệnh lệnh nhằm “tập trung quân lực Mỹ lớn nhất trong khả năng cho phép để đánh trả địch” (báo cáo 21-1-1968). Giữa những điều động và tăng cường trinh sát, ngày 19 tháng Giêng, Westmoreland đã điều tất cả các phi vụ ném bom của B.52 về vùng trọng điểm này. Cũng từ đây, tướng Westmoreland sẽ bắt đầu gần ba tháng liền tù tì “trực chiến” tại Sở chỉ huy, không về nghỉ đêm ở nhà riêng nữa. Chiến sử Khe Sanh của Mỹ cũng bắt đầu từ đây và đã tiêu tốn vô vàn giấy mực cho tới nay. Nhà trắng còn cẩn thận lưu vào Hồ sơ Khe Sanh những bài báo gây chấn động. Đáng chú ý có hai bài ra ngày 29-1-1968, Việt Nam: bão đang nổi lên; và Trận Khe Sanh: bước ngoặt có tính then chốt.

Ở Washington, tổng thống Mỹ theo dõi chặt chẽ tình hình chiến sự ở Khe Sanh. Giôn-sơn bắt Bộ tham mưu liên quân phải ký “quyết tâm thư bằng máu” giữ Khe Sanh. Trước đó (12-1-1968), Westmoreland khẳng định Khe Sanh, ngoài giá trị chiến lược về quân sự như chiếc “mỏ neo” ở phía tây của hệ thống phòng thủ vùng giáp giới tuyến, còn chặn đường “địch” xâm nhập xuống các tỉnh duyên hải trù phú. Từ bỏ Khe Sanh sẽ tạo ra một chiến thắng trọng đại về phương diện tuyên truyền cho đối phương, làm mất tinh thần của Mỹ và “Việt Nam cộng hòa”. Giới quân sự Mỹ dường như đã chuyển từ hành động quân sự thuần túy (chiến tranh quy ước) sang quan điểm chiến tranh còn chịu sự chi phối của các mục tiêu chính trị. Những hạt giống như thế này rồi sẽ nảy mầm thành những luận thuyết dạng như “Mỹ đã không thua về quân sự, chỉ thất bại về chính trị ở Việt Nam” xuất hiện ở Hoa Kỳ gần đây.

Ở Khe Sanh, bất chấp 40 lần không kích của B-52 và 500 lần chiếc máy bay chiến thuật mỗi ngày, đối phương vẫn chưa xuất kích. Johnson lo lắng. Ngày 2 tháng 2, ông ta lại thúc bách Chủ tịch hội đồng liên quân Uyn-lơ phân tích sự tương đồng giữa Khe Sanh và Điện Biên Phủ. Trả lời vào hôm sau, Uyn-lơ lại trích báo cáo của chính Westmoreland để trả lời tổng thống. Theo đó, kỹ năng tác chiến và nhất là công năng vũ khí của Mỹ hiện có ở Khe Sanh đều “trên tài” người Pháp ở ĐBP nhiều lắm. Điều lạ là trong dịp này, Westmoreland lại hỏi xin thêm máy bay C-130, máy bay trực thăng; các vũ khí cá nhân hiện đại hơn như tiểu liên M-16, súng máy M-60 và cối M-29 cho quân Sài Gòn. Việc quân Giải phóng và cả du kích miền Nam sử dụng những vũ khí mới gây nên một sự hoảng loạn trong hàng ngũ ngụy quân; theo báo cáo 25-2-1968, quân Sài Gòn từ nay gọi súng carbine là “súng đồ chơi”, đòi người Mỹ phải chi ra những khí giới mới.

Lạ hơn nữa là Westmoreland lại đề cập khả năng dùng đến vũ khí hạt nhân chiến thuật, hoặc vũ khí hóa học, “nếu tình hình vùng gần giới tuyến quân sự tạm thời thay đổi nghiêm trọng”. Chuyện này làm người ta không thể không liên tưởng đến kế hoạch “Chim kền kền” của Mỹ đời tổng thống Eisenhower, đòi ném bom nguyên tử xuống Điện Biên Phủ.

Cuối cùng miền Bắc cũng “xơi gọn” Làng Vây

Không có tin về Khe Sanh nổ súng không có nghĩa là tin tốt. Vì quân Bắc Việt dĩ nhiên đang chuẩn bị chiến trường. Qua trận Cồn Tiên vài tháng trước, đã lộ rõ ý đồ áp dụng kinh nghiệm vây lấn ở Điện Biên Phủ. Đại bác thường được “đút” ngang hông các triền núi, khi bắn kéo ra ngoài, bắn xong vài loạt lại rút ngay vào trong hầm để tránh phản pháo. Bộ binh thì tiến dần vào cứ điểm quân đồng minh (quân của Mỹ, Sài Gòn và đồng minh của họ) bằng cách đào công sự tỏa ra như nan quạt, vừa đào vừa đánh. Lần này những chiến thuật như thế không thể gây kinh ngạc đến mức phải tự vẫn, như đại tá pháo binh Pháp Piroth ở Điện Biên Phủ, nhưng vẫn được nói đến trong các báo cáo chiến sự ở Khe Sanh. Quân Mỹ sẽ dùng B52 đánh “sát sườn” căn cứ của mình, hoặc sử dụng mọi thứ hỏa lực, kể cả bom na-pan để ngăn chặn từ xa sự lan tỏa trận địa chiến hào của đối phương.

Trong khi dõi theo chiến sự đang tiếp diễn ác liệt trên toàn miền Nam, Washington vẫn dỏng tai chờ tiếng súng mở màn Khe Sanh. Hôm 4-2, sau khi đọc báo cáo về việc đối phương “đang chuẩn bị tiến công cực kỳ mãnh liệt ở Vùng chiến thuật I”, một phụ tá quân sự cao cấp, tướng Ginsberg, được Johnson tuyệt đối tin tưởng, đã tâu rằng, chắc là tại B52 và máy bay ném bom chiến thuật đã làm “xáo trộn kế hoạch tiến công của Bắc Việt Nam”, hoặc giả, Hà Nội đang chờ các chiến trường phối thuộc, tức là các thành phố ở miền Nam, tổng công kích đợt hai.

Dường như không muốn Nhà trắng phải thất vọng, ngay hôm sau, mồng 5 tháng 2, một số đơn vị thuộc Sư đoàn 325 của miền Bắc đã tiến công cứ điểm 861 thuộc lực lượng đồn trú Khe Sanh, kết hợp với 4 giờ liền nện rốc két, cối và pháo hỏa chuẩn bị. Báo cáo cho Nhà trắng biết, thủy quân lục chiến Mỹ và B52 cũng đáp lại dữ dội. Bắt đầu từ đây, Westmoreland được yêu cầu gửi báo cáo chi tiết hằng ngày về Khe Sanh, gồm cả thời tiết, và tình trạng đường băng là yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động của cầu hàng không tiếp tế cho Khe Sanh và tải thương, bao nhiêu loạt COFRAM đã được bắn. Nổi bật trong đó dĩ nhiên là con số lính Mỹ chết hoặc bị thương trong ngày ở Khe Sanh và bao nhiêu trong số thương vong này đã được sơ tán bằng trực thăng. Số liệu này của ngày 5-2 chẳng hạn, là bảy lính cổ da (LTĐB Mỹ) tử trận, 44 người khác bị thương. Những cơn buốt đầu của ông chủ Nhà trắng được thể hoành hành dữ dội hơn.

Dịp này, Rostow viết báo cáo cho Tổng thống, nhấn mạnh: “À đây rồi, chính nó (thời điểm bản lề của cuộc chiến tranh)!”. Ông ta lưu ý rằng Việt cộng sẽ còn tổ chức những đợt tiến công mới vào các tỉnh lỵ, đô thị, vì cú sốc đầu tiên dành cho quân đội và bộ máy chính quyền Sài Gòn tuy mạnh, nhưng chưa đủ sâu. Ông tái khẳng định rằng cuộc chiến đấu trong các đô thị chính là “chiến dịch nghi binh then chốt” để hút quân dự bị đang dành để ứng cứu Khe Sanh phải trở về đánh nhau ở các thành phố (!) Cũng trong báo cáo này, Rostow đề xuất với tổng thống Mỹ, vì đây là “trận đánh có ý nghĩa quyết định đối với hướng đi của châu Á trong một thời gian dài và vị thế của Hoa Kỳ trên thế giới và là trận đánh chỉ được phép thắng, tổng thống cần:

1- Điều ngay sư đoàn không vận số 81 sang Việt Nam bằng máy bay.

2- Tăng cường lấy quân ở Việt Nam và các nơi khác nữa.

3- Huy động lực lượng dự bị ở Hoa Kỳ …

Rạng sáng 7 tháng 2, căn cứ lực lượng đặc biệt (LLĐB) Làng Vây, cách Khe Sanh 5 dặm về phía bắc bị tràn ngập bởi trung đoàn 66, “hung thần” của trận thung lũng Iađrăng 1965. Tướng Giáp đã xuất chiêu với “bảo bối” mới: các xe tăng do Liên Xô sản xuất. Viên chỉ huy Khe Sanh đã từ chối ứng cứu cho hơn 500 lính mũ nồi xanh đóng ở Làng Vây, sợ mắc mưu “đánh điểm diệt viện” của QĐND Việt Nam. Nhưng các máy bay phóng pháo đã tới oanh tạc. Nếu việc xe tăng xuất hiện ở chừng mực nào đó không hẳn đã là một bất ngờ (Nhà trắng đã dự kiến sự xuất hiện của bộ đội không quân và tên lửa Việt Nam ở Vùng chiến thuật I này), thì việc xe tăng tiến vào cứ điểm Làng Vây từ ba hướng, chỉ bị phát hiện khi đã ở trong hàng rào thép gai, lại gây sửng sốt, ngờ vực. Thái độ bạc đãi (tước vũ khí, giam xuống hố) của lính thủy đánh bộ Mỹ ở Khe Sanh đối với các lính LLĐB người Thượng chạy thoát từ Làng Vây về khiến người ta nghĩ rằng đã có một sự khắc phục bài học “nội phản”, như của cứ điểm Bản Kéo ở Điện Biên Phủ. Hồ sơ rút kinh nghiệm Điện Biên Phủ ở Nhà trắng có đề cập một nguyên nhân thất bại của tập đoàn cứ điểm này là, quân Pháp đã “sống chung” với một số lượng dân thiểu số bản xứ, mà người Pháp cho rằng đã có điệp viên của Việt Minh trà trộn vào. Trong thời gian Làng Vây bị tiến công, Khe Sanh cũng bị pháo kích, gây tổn thất cho lính thủy đánh bộ (LTĐB) Mỹ.

Thoái chí, nhổ neo chuồn

Sự căng thẳng “trước giờ nổ súng” mà Khe Sanh áp đặt khá lớn. Một số phụ tá quân sự và an ninh đã phải làm các động tác lên dây cót cho ông chủ Nhà trắng. Trong báo cáo 4-2-1968, tướng R.Ghin-đen-bớc tìm cách động viên tinh thần của các tư lệnh, cũng như Tổng tư lệnh (tức là tổng thống Johnson) bằng cách nêu lại một kinh nghiệm về giờ G (thời điểm đổ bộ) trong thế chiến II mà ông nghĩ là có ích cho Khe Sanh… Trong báo cáo 8-2-1968, một ngày sau khi mất Làng Vây, như là Him Lam của Điện Biên Phủ, đại sứ C. Lốt-giơ đã viết, vì quan điểm của ông có thể đã bị ai đó gièm pha “nơi trướng gấm” (Nhà trắng), ông tái khẳng định rằng không hề nghiêng ngả trong ủng hộ chủ trương giữ Khe Sanh, coi đó như một quyết định sống còn. Nhưng chỉ một tuần sau, gió xem ra đã đổi chiều. Rostow viết cho tổng thống trong báo cáo 14-2-1968 về Khe Sanh như sau:

“Tôi biết rằng Khe Sanh chiếm chỗ quá nhiều trong tâm trí của ngài, cũng như của tôi. Rất có thể đã quá muộn để làm được điều gì trong hoàn cảnh này. Nếu đúng như vậy, cần phải dẹp bỏ mọi nghi ngại sang một bên và sẵn sàng chiến đấu. Mặt khác, nếu còn có thời gian để áp dụng một ảnh hưởng hữu ích (lên tình hình), thì ta phải hành động ngay.

Tôi vừa xem lại các ý kiến của tướng Westmoreland trong các điện văn gần đây. Theo đó, ông ta trình bày rằng việc chiếm đóng Khe Sanh từ ban đầu đã được biện minh bởi nhu cầu thiết lập một căn cứ hành quân nhằm tiến hành các hoạt động ngăn chặn các đường thâm nhập chính yếu từ đông Lào sang. Quan trọng hơn, việc chiếm đóng này còn ngăn chặn địch tiến về Quảng Trị, cũng như ngăn chặn chiến sự lan tới vành đai đông dân ven biển của Vùng chiến thuật I. Nhưng Westmoreland lại thừa nhận rằng Khe Sanh chẳng hữu hiệu mấy trong ngăn chặn thâm nhập từ Lào, và vai trò ngăn chặn (Quân giải phóng) tiếp cận Quảng Trị cũng chẳng rõ rệt lắm, cả trong quá khứ lẫn hiện tại.

Vậy là tướng Westmoreland trở nên không ủng hộ mạnh mẽ cho việc phòng thủ Khe Sanh nữa, bởi vai trò hiện tại của nó trong ngăn chặn các đường thâm nhập từ Lào hay trong phòng thủ khu vực chủ yếu của các tỉnh phía Bắc (của Nam Việt Nam). Cho dù tướng Westmoreland có nói trong một cuộc điện thoại với tướng Uyn-lơ rằng, ông tin tưởng rằng việc giữ Khe Sanh sẽ đem lại cơ hội, vào một lúc nào đó, chống lại đòn đánh mạnh của kẻ thù. Nhưng ông đã không nhấn mạnh điều này. Ngược lại, qua các bức công điện, ông tỏ ra bị căng thẳng do những khó khăn của việc rời bỏ Khe Sanh, cùng những hậu quả tâm lý sẽ đến của cuộc rút lui này, ảnh hưởng lên Nam Việt Nam và lên công chúng Mỹ…”.

Những căng thẳng dồn nén trong chiến cuộc Xuân 1968 đã dẫn đến tuyên bố nổi tiếng của Johnson hôm 31 tháng ba, hạn chế việc ném bom tới rìa phía Bắc khu phi quân sự, bày tỏ sự sẵn lòng đàm phán của phía Mỹ, cũng như quyết định không chạy đua cho một nhiệm kỳ tổng thống nữa. Ngay hôm sau, vào ngày “nói dối”, 1-4, cuộc hành binh giải tỏa Khe Sanh bắt đầu. Hồ sơ Nhà trắng giai đoạn này cũng phản ảnh “chiến dịch nghi binh” bằng một liên đội tăng cường quân kỵ binh bay Mỹ, tiểu đoàn 3 LTĐB Mỹ và chiến đoàn 2 của Sài Gòn, được yểm trợ bởi năm tàu chiến Mỹ, đánh về phía tây bắc Đông Hà báo cáo 4-4-1968), để phân tán lực lượng “địch” đang vây ép Khe Sanh. Hồ sơ trận Khe Sanh của Nhà Trắng, hiện mới giải mật đến hôm 5-4-1968. Theo các nguồn tin khác của Mỹ, quân kỵ binh bay Mỹ đã phải nện nhau thật lực với quân Bắc Việt Nam hôm mồng 6, cũng như trận đánh tại lô cốt cũ của Pháp ở Khe Sanh kéo dài 3 ngày liền từ 4 đến 7 tháng 4. Nhìn chung, hoạt động đánh trả đầu tháng 4 của đối phương được các báo cáo trong hồ sơ Khe Sanh là “không mạnh”, để quân kỵ binh bay thuộc loại “hàng xịn” còn mã hồi cho sớm. Nhưng, vẫn theo nguồn tin Mỹ, khi Ngựa bay chính thức kết thúc hôm 15-4, tức là sau hai tuần, đã có gần 800 lính Mỹ và hơn 200 lính Sài Gòn bị loại khỏi vòng chiến đấu trong chiến dịch giải tỏa Khe Sanh này.

Giấu đi đâu một “Điện Biên Phủ” nữa

Tưởng như đã bưng bít xong, nhưng rồi Nhà Trắng lại chao đảo lần nữa vì Khe Sanh. Lần này, lại vẫn do lũ nhà báo giở giói ra. Ngay từ hôm 24-6 phóng viên Giôn Ca-rôn của tờ Mặt trời Baltimore đã loan tin Bộ chỉ huy Mỹ “vừa buộc phải rút bỏ Khe Sanh, một căn cứ quân sự được (Mỹ) phòng thủ với một giá đắt, do vị trí rào cản có tính sống còn của nó ở dưới khu giới tuyến”. Bộ chỉ huy Mỹ mập mờ phủ định tin này, nhưng tay phóng viên khẳng định “Các thủy quân lục chiến biết việc này, người Bắc Việt Nam biết việc này, chỉ có nhân dân Mỹ là không biết. Mặc dù Bộ chỉ huy Mỹ giải thích việc này (bỏ Khe Sanh) là do những yêu cầu về quân sự đặt ra, nhưng miền Bắc cho đây là thất bại nghiêm trọng nhất cả về chiến thuật lẫn chiến lược của Mỹ trong cuộc chiến tranh này”.

Theo báo cáo dành cho tổng thống 25 và 26-6-1968, quân sư “quạt… máy” Rostow đã phải nhanh chóng ra tay. Một là, ông ta đã mất nửa giờ thuyết phục hãng tin Mỹ tầm cỡ toàn cầu AP đừng đưa tin của Mặt trời Baltimore. Hai là, để hỗ trợ cho Abrams hiện đang rối beng lên về việc “tiêu thổ” ở Khe Sanh và trăm thứ việc khác trên toàn miền Nam, Rostow đã dự thảo để MACV ra một tuyên cáo. Cốt lõi cho tuyên cáo này là, quân Mỹ phải bỏ Khe Sanh chỉ vì “địch đã thay đổi chiến thuật”. Tuy nhiên. Rostow vẫn còn lo Westmoreland, đã nổi đóa vì bị Abrams qua mặt, cho bỏ Khe Sanh ngay sau khi người tiền nhiệm vừa rời gót, sẽ phản đối luận điệu này. May mà mọi sự êm thấm. Rostow đã dàn xếp được để phát biểu của Abrams ở Việt Nam, và của Westmoreland ở Honolulu không chống nhau. Thông báo của Bộ chỉ huy Mỹ hôm 26-6-1968 đã không dài dòng văn tự như kịch bản Rostow dự thảo, chỉ gồm hai luận điểm, để khỏi hở sườn. Một là, việc căn cứ Khe Sanh “thôi không hoạt động nữa là do địch đã thay đổi chiến thuật”. Hai là, Bắc Việt Nam hiện đang tập trung ở vùng quanh Khe Sanh tới 8 (!) sư đoàn, chứ không còn là 6 sư đoàn như hồi tháng Giêng 1968.

Tác động của Mỹ rút bỏ Khe Sanh đối với công luận được tác giả Peter Bush đánh giá như sau:

“Tướng Abrams ra lệnh giữ bí mật chuyện đóng cửa căn cứ càng lâu càng tốt. Đến khi chuyện này buộc phải công bố chính thức, chỉ một lượng thông tin nhỏ được cung cấp. Sự kiện bỏ Khe Sanh được công luận Mỹ nhìn nhận một cách “đầy ngờ vực và hoang mang”. Lầu Năm Góc ghi nhận việc công bố quyết định bỏ Khe Sanh là “một sứ mạng khó khăn về phương diện tuyên truyền”.

Ngày 7 tháng 7, tờ Thời báo New York đưa tin từ Hồng Kông, cho rằng người châu Á nhìn chung tin vào lý do Mỹ phải bỏ Khe Sanh mà đài Hà Nội đã đưa ra, và bác bỏ cách giải thích của Mỹ, theo đó việc bỏ Khe Sanh là do “tình hình về quân sự đã thay đổi”.

Không giống như một số trận đánh khác, Khe Sanh đã chiếm được chú ý của truyền thông đại chúng và công luận ở Mỹ. 25 phần trăm thời lượng phim chiếu trên chương trình truyền hình buổi tối trong tháng 2 và tháng 3 năm 1968 tường thuật tình hình ở Khe Sanh. Riêng kênh CBS, tỷ lệ này là 50 phần trăm. Viện Gallup đưa ra số liệu, cứ 5 người thì 1 vừa chuyển từ lập trường diều hâu sang bồ câu trong khoảng cuối tháng 2, đầu tháng 3. Vì thế, cách tốt nhất để làm cho Khe Sanh khỏi gây ảnh hưởng xấu đối với công chúng Mỹ là bỏ căn cứ này”.

Nhưng cho đến ngày nay, Khe Sanh vẫn là một chủ đề gây nhức nhối ở Mỹ. Và để làm dịu bớt, còn nhiều tư liệu của Mỹ dần dà sẽ được giải mật. Và người dân sẽ được thông tin đầy đủ hơn về việc Nhà Trắng và bộ sậu diều hâu ở Mỹ đã “lãnh đủ một Điện Biên Phủ” ở Khe Sanh ra sao trong chiến cuộc Xuân Mậu Thân.

Theo QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN