Những lao tù của chế độ Mỹ – Diệm trên đất miền Nam 1

Bài 1: Nhà tù Tân Hiệp: Tù đày không giam được khối óc, trái tim người cộng sản Chúng tôi đã tìm về các nhà lao, nhà tù của chế độ Mỹ-Ngụy trên đất miền Nam để tìm về một thời mà những chiến sĩ cộng sản kiên trung của Đảng khi bị địch bắt và tù đày đã sống và chiến đấu, làm việc thế nào trong tù ngục. Những thủ đoạn thâm độc của kẻ thù như đổ nuớc ớt vào miệng, nhổ răng, nhổ móng tay, … những đòn roi tra tấn của Mỹ-Ngụy dùng tra tấn những chiến sĩ cộng sản như dưới thời Trung cổ vẫn không khuất phục được ý chí và tình yêu đất nước, tình yêu Đảng Cộng sản của người chiến sĩ cách mạng.
Tù ngục Mỹ – Diệm: Địa ngục trần gian

Sau hiệp định Giơnevơ, Mỹ trực tiếp nhảy vào xâm lược nước ta, giữa năm 1955, Mỹ – Diệm cải tạo, mở rộng trại tù binh chiến tranh thành một trong sáu nhà tù lớn ở miền Nam, Việt Nam. Kẻ thù gọi đó với một cái tên rất mị dân là “Trung tâm huấn chính Biên Hòa”, nhân dân quen gọi là nhà lao Tân Hiệp, hay nhà tù Tân Hiệp, nhằm phân loại và cải tạo tư tưởng những người cộng sản, người yêu nước và kháng chiến cũ. Nhưng thực chất đây chính là một địa ngục khổng lồ xây dựng trên một địa ngục của những người đã chết.

Bà Trần Thị Hòa (tức Ba Hòa), cựu nữ tù chính trị của nhà tù Tân Hiệp

Nhà tù Tân Hiệp ngày xưa là nơi giam giữ những người công sản yêu nước, thì nay thuộc phường Tân Tiến, TP. Biên Hòa (Đồng Nai), một thành phố trẻ đang tràn đầy sức sống với những công trình công nghiệp, những sản phẩm công nghiêp từ nơi đây tỏa đi khắp đất nước, thì chính nơi đây ngày xưa, Mỹ-Ngụy đã xây dựng một nhà tù được gọi là “Trung tâm huấn chính Biên Hòa”, có vị trí biệt lập, cách biệt với bên ngoài, lại thuận tiện cho việc giao thông, thuận lợi cho việc nhận tù từ nhà lao Gia Định, Bót Ca Ti Na và các nơi khác chuyển đến… và cũng là nơi dễ dàng chuyển tù đi Côn Đảo – Phú Quốc. Theo lời kể của nhiều tù chính trị yêu nước thì nhà tù Tân Hiệp được bao quanh bởi hai lớp kẽm gai và hệ thống 9 tháp canh lớn nhỏ, các tháp canh được xây dựng kiên cố, đủ cho 3 lính canh đứng gác. Kẻ thù còn phân chia ra các trại để dễ dàng quản lý tù nhân cũng như dễ dàng “cải  huấn” họ. Toàn bộ nhà tù Tân Hiệp được chia ra thành 7 trại, cụ thể như trại E, D, R, giam giữ các chiến sĩ cách mạng, đảng viên cộng sản trung kiên và đồng bào yêu nước, trại B, giam tù nhân mới chuyển đến chờ phân loại hồ sơ chuyển đi nơi khác.

Nhiều nhân chứng của tù chính trị nhà tù Tân Hiệp kể lại, kẻ thù  đã dùng nhiều thủ đoạn thâm độc để tra tấn làm nhụt ý chí và tinh thần yêu nước của tù chính trị. Trong một phòng giam vô cùng chật hẹp, chúng đã giam rất nhiều chị em phụ nữ và để “cải huấn” đàn áp các chị, bọn cai ngục đã sử dụng các loại lựu đạn cay, vôi bột, bom lân tinh ném vào làm cho người tù bị ngất xỉu, phỏng toàn thân, sau đó chúng dùng thuốc xịt muỗi DDT bơm vào rồi lôi phạm nhân ra ngoài phơi nắng. Không những thế, Mỹ-Ngụy còn dùng nhiếu đòn tra tấn về tâm lý và cũng như thể xác. Chúng còn biên soạn và sử dung những tài liệu cải huấn hết sức bài bản và quy củ nhưng vẫn không thể nào khuất phục được ý chí chiến đấu kiên cường của những chiến sĩ cách mạng.

Bà Huỳnh Lan Anh,  ngụ Biên Hòa (Đồng Nai), một trong những nhân chứng của tù chính trị nhà lao Tân Hiệp kể, tại nhà giam Tân Hiệp, Mỹ-Ngụy đã xây dựng nhiều nhà giam tập thể có diện tích 9480m2, được xây dựng kiên cố, chia ra nhiều phòng lớn nhỏ riêng biệt. Nhưng trước đó mỗi trại giam có diện tích 193m2, trung bình giam 250-300 tù nhân và có thời điểm lên đến hàng ngàn người trong một trại giam nhỏ. Bà Lan Anh cũng cho biết thêm, đối với tù chính trị nam, kẻ thù tra tấn rất dã man, nhưng đối với chị em tù chính trị nữ cũng thật khắc nghiệt, những ngày phụ nữ, bệnh tật nhưng vẫn không được tắm giặt. Đó là những khó khăn và khổ sở của chị emtù chính trị, nhưng trong nhà tù của kẻ thù các chị em tù chính trị nữ vẫn môt mực không khuất phục kẻ thù.

Để mau chóng thoát khỏi nhà tù, tố cáo tội ác của Mỹ-Diệm cho nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới cũng như nhân dân cả nước được biết và trở về với Đảng, với nhân dân, tiếp tục chiến đấu đánh đuổi đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, ngày 2/12/1956, tại nhà tù Tân Hiệp, các chiến sĩ cách mạng, người yêu nước đã làm một cuộc phá khám tập thể giải thoát gần 500 người là lực lượng nòng cốt cho phong trào đấu tranh giải phóng cho dân tộc ở miền Nam sau này.

Chiến sĩ cách mạng vượt ngục Tân Hiệp về với Đảng và nhân dân

Ông Nguyễn Văn Thông, 87 tuổi, ngụ ở Biên Hòa (Đồng Nai), một nhân chứng trong cuộc phá khám nhà Tù Tân Hiệp kể lại: Trong nhà tù Tân Hiệp hằng ngày những tay sai của chế độ Mỹ – Diệm dùng nhiều thủ đoạn thâm độc hòng làm nhụt ý chí cách mạng của những người yêu nước, những đòn roi tra tấn, lấy dùi cui thúc vào bụng, vào chỗ kín, đổ nuớc xà bông vào miệng, nhổ răng. Nhưng hàng trăm anh, chị em cán bộ đảng viên ở trại giam Tân Hiệp kiên quyết tẩy chay những thủ đoạn thâm độc của địch, với một tâm niệm “sống vĩ đại, chết vinh quang”, nên trong nhà tù, Đảng ủy nhà tù Tân Hiệp đã chuẩn bị một cuộc vượt ngục.

Đúng 17giờ 15 phút, chiều chủ nhật ngày 2/12/1956, tên lính gác trực đánh kẻng báo cho tù vào trại thì đồng thời có tiếng hô “xung phong” vang dậy, các mũi xung kích “xáp” đánh với một tiểu đội địch. Với giọng kể đầy xúc động của cái tuổi trị thiên mệnh, nhưng ông Thông vẫn nhớ như in vào tâm trí của mình vào buổi chiểu đó. Cái buổi chiều đã đi vào lịch sử của những cuộc nổi dậy của những chiến sĩ cách mạng phá chế độ kèm kẹp của kẻ thù để về với nhân dân, với Đảng.

Ông Thông kể: Khi địch chào cờ xong, chúng chuẩn bị lấy súng trong kho thì các chiến sĩ của ta xung kích, ào ạt tràn vào giành giựt súng trong kho. Cũng giờ khắc đó hằng trăm anh chị em tù chính trị “ào ra cửa cổng”. Súng ta, súng địch bắn trả nhau một góc trời. Trong khi đó một mũi xung kích có 17 anh em với 13 khẩu súng vòng qua trại E bắn kiềm chế lô cốt số 1 và số 2 cho các chiến sĩ tù chính trị thoát ra nhà tù.

Giọng ông Thông chậm rãi hơn những trong giọng kể của ông có những giọt nước mắt nhớ các đồng đội hôm qua, nhớ những đòn tra tấn của kẻ thù và nhớ những giòng người là những anh em tù chính trị  như “thác lũ” đẩy 2 cánh của cổng ngược ra phía Quốc lộ 1, vuợt qua sân bóng, suối Đồng Tràm. Đoàn chiến sĩ cách mạng nhà lao Tân Hiệp khi đến một Sở Cao su thì tách ra mấy mươi đoàn nhỏ, mỗi đoàn vài chục anh em để đi nhiều hướng nhằm tránh tai mắt của kẻ thù. Giọng kể của ông Thông có nhiều xúc động: Riêng đoàn Nguyễn Văn Chuông, Nguyễn Trọng Tâm, gần 300 anh em đi về hướng Trị An – Chiến khu Đ và phân tán các anh em còn lại cũng như móc nối, bắt liên lạc với Đảng bộ địa phương.


  Cổng giam tù chính trị (Ảnh: Hoàng Hùng)

Bà Trần Thị Hòa, tự Ba Hòa, một trong những nữ tù chính trị của nhà tù Tân Hiệp cho biết: Trong nhà tù Tân Hiệp, chị em tù chính trị hoạt động mạnh, như tuyệt thực, chống chào cờ của địch, vì những lý do như vậy, địch đã đưa bà Hòa và các đồng chí nữ của mình vào phòng biệt giam. Với suy nghị, những người yêu nước là những người yêu tự do và lẽ phải, là người không có tội. Trong tù các đồng chí tù chính trị đã thành lập cấp ủy, những tổ chức thanh niên, phụ nữ để làm mũi tiến công đấu tranh với kẻ thù. Cũng theo bà Hoa cho biết, tổ chức Đảng và cấp ủy cũng như các tổ chức đoàn thanh niên trong nhà tù đã phát huy được tiếng nói tiên phong cũng như lời hiệu triệu những Đảng viên và những người yêu nước, để mọi người tin tưởng vào ngày thắng lợi, cũng như nâng đỡ, động viên những người đồng đội khác trong tù ốm đau, hay bị địch tra tấn dã man.

Để đối phó với những người tù chính trị cách mạng, kẻ địch đã bắt những tù chính trị nhịn đói, ăn cơm dòi bọ và cá mắm thối. Ngồi trong căn phòng liên lạc của những tù chính trị bị địch bắt và tù đày tại Đồng Nai trong những ngày tháng 7 lịch sử, để kể cho chúng tôi nghe về những năm tháng hoạt động của bà và đồng đội trong tù, đấu tranh với địch mà giọng bà đầy xúc động. “Chúng tôi đấu tranh trong nhà tù chính là muốn phân tán một mũi tấn công và đàn áp của kẻ thù vào những người yêu nước bên ngoài“ chúng tôi đã chia lửa cùng những đồng đội khác”. 18 tuổi hoạt động cách mạng, bị địch bắt ở cái tuổi 18, tuổi đẹp nhất của thời thiếu nữ, trải qua các nhà lao, tù ngục của kẻ thù như Thủ Đức, Chí Hòa, Tân Hiệp, Côn Đảo với 10 năm tù đày với những hình thức tra tấn dã man của kẻ thù nhưng các chị, những đồng chí trung kiên của Đảng vẫn một lòng hướng về ngày thắng lợi, hướng về với nhân dân và hướng về ngày toàn dân thống nhất đất nước. Và sau khi Hiệp định Paris được ký kết, bà Hòa được trao trả cho chính phủ lâm thời cách mạng miền Nam Việt Nam.

Trong những ngày đi thực hiện bài viết, chúng tôi đã gặp cách nhân chứng là tù chính trị của một thời đấu tranh với kẻ thù trong vòng tối của nhà giam, những lao, ngục của kẻ thù trông họ thật anh dũng kiên cường. Nhưng hôm nay về với cuộc sống đời thường, họ thật bình dị, có người đã làm ông, làm bà, nhưng có người vì dân tộc đã hy sinh cho sự thanh bình hôm nay. Qua bài viết này, cho chúng tôi, những thế hệ trẻ tri ân những tâm gương hy sinh vì đất nước, vì dân tộc của họ. Những người anh hùng trong nhà giam của chế độ Mỹ – Ngụy, họ đã viết nên những trang sử thật đẹp và kiên cường cho hôm nay.

Hoàng Hùng

Biến mất rồi, những tiếng ru hời bên nôi…

Không chỉ dân tộc Việt, hầu như tất cả các dân tộc trên thế giới từ xa xưa đều biết dỗ trẻ ngủ qua những câu hát ru. Những câu hát nhẹ nhàng, đơn giản được lấy từ ca dao, đồng dao của mỗi dân tộc hoặc các bài thơ, điệu hò, điệu lý có trong dân gian được truyền tụng từ thế hệ trước đến thế hệ sau.

Đấy là một trong những cách bảo lưu hồn cốt của mỗi dân tộc một cách hữu hiệu nhất.Sữa nuôi phần xác, hát ru nuôi phần hồn

Không ai biết hát ru có tự bao giờ và bắt nguồn từ đâu. Chỉ biết rằng, nó được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, ăn sâu vào tâm hồn người Việt. Giữa trưa hè oi ả hay những đêm đông lạnh giá, lời ru của bà, của mẹ cất lên lúc thì như một làn gió mát dịu, khi lại như ngọn lửa ấm nồng đưa bé chìm sâu vào giấc mộng. Trong lời ru có cánh cò bay lả bay la, có cái bống chịu thương chịu khó giúp mẹ việc nhà, có con cún con hay nô đùa với bé.

Những bài hát ru thường rất đa dạng, mang đậm tính chất vùng miền, địa phương. Các bà mẹ ru con thường chỉ quan tâm đến phần lời ca có vần vè, dễ nhớ, còn giai điệu, mỗi người có một giọng điệu trữ tình tương hợp với tình cảm mẹ dành cho con, bà dành cho cháu, nhưng cốt sao làm cho bé dễ ngủ mà vẫn gây ấn tượng sâu sắc trong suốt cả cuộc đời mỗi người.

Theo nhiều nghiên cứu khoa học, mặc dù thai nhi nằm trong nước ối và được bao bọc bởi nhiều lớp cơ, màng, nhưng vẫn có thể nghe được tiếng động, tiếng nhạc, nhịp nhanh chậm, tông độ cao thấp… tác động từ bên ngoài, gần như chính xác. Tiếng nói của mẹ có cường độ mạnh vì truyền theo cơ thể thẳng vào tử cung. Tiếng động có khả năng thay đổi nhịp tim của thai nhi. Do đó nhịp điệu của bài hát mẹ ru đem lại cho con trẻ cảm giác “an toàn” đang được mẹ bảo vệ để chúng nhanh chóng có thể chìm sâu vào giấc ngủ.

Theo một nghiên cứu của Đại học Ohio (Nhật Bản), hát ru là những kích thích rất có lợi không những với sự phát triển ngôn ngữ, tâm lý và sinh lý, mà còn cả phát triển thể chất của trẻ nhỏ. Nhiều người đã xác nhận rằng những trẻ hằng ngày được kích thích bằng hát ru trong thời gian khoảng 10 phút, thì phản xạ vận động tốt hơn nhiều so với trẻ không được nghe hát ru.

Còn theo Giáo sư Trần Văn Khê, một nhà nghiên cứu âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam nổi tiếng thế giới, thì “Sữa nuôi phần xác, hát nuôi phần hồn”. Theo ông, lời ru của mẹ đóng vai trò quan trọng đối với sự hình thành nhân cách của một đứa trẻ. Cũng theo ông trong thời kỳ mang thai, nếu đứa trẻ được thai giáo bằng âm nhạc đúng cách sẽ có tác dụng tích cực rõ ràng đến sự hình thành tính cách của các em khi lớn lên.

Vì sao hát ru ngày càng thưa vắng?

Trong bận rộn mưu sinh, không chỉ ở các thành phố lớn hay khu công nghiệp, người ta bị cuốn vào guồng quay của thời kinh tế thị trường, thời gian làm việc và năng suất lao động quyết định đến niêu cơm và chiếc ví mỗi người, mà ngay cả ở những vùng quê thuần nông, tiếng ru của những người mẹ trẻ cũng ngày một thưa vắng hơn. Hiện nay chưa có một số liệu điều tra xã hội học nào đủ tin cậy để trả lời cho câu hỏi vì sao tiếng ru của những bà mẹ ngày càng lụi tàn đi.

Không biết do quá bận rộn hay vì hẹp vốn lời ca mà nhiều mẹ trẻ mỗi khi cho con ngủ, thay vì tự hát ru thì lại “nhờ” cát xét ru hộ. Thế nhưng đã mở hết một đĩa DVD rồi mà mắt bé vẫn mở thao láo. Đến khi bà ôm cháu vào lòng, tay xoa nhẹ vào lưng, lên đầu, ánh mắt nhìn cháu trìu mến rồi bà cất lời ru: “À… à… à… ơi… Con ơi muốn nên thân người/ Lắng tai nghe lấy những lời mẹ cha/ Gái thời chăm chỉ trong nhà/ Khi vào canh cửi, khi ra thêu thùa/ Trai thì đọc sách ngâm thơ/ Dùi mài kinh sử để chờ kịp khoa/ Nữa mai nối được nghiệp nhà/ Trước là đẹp mặt, sau là hiển thân… à… à… à… ơi…”. Thế là bé dần lim dim đôi mắt, chìm vào giấc nồng lúc nào không biết.

Nhiều bà mẹ trẻ bây giờ, mỗi khi ru con ngủ chỉ ậm ừ trong cổ họng hay hát những bài không đầu, không đuôi. có bà mẹ trẻ còn mở những bản nhạc híp hốp… làm inh tai, nhức óc con trẻ.

Còn diva Mỹ Linh đã tiết lộ rằng, con cái của chị rất sợ khi nghe mẹ hát ru, vì chúng nó thích nghe nhạc ngoại. Sau khi nữ ca sĩ này thử hát ru một bài, danh hài Hoài Linh nhận xét thẳng tưng: Nghe em ru con như thế, con em muốn nghe nhạc ngoại là đúng rồi. Ối giời ơi, hát ru ơi là hát ru!

Có nhiều người còn cho rằng, hát ru vừa làm mất thời gian, lại phải bế bồng, vỗ về, vuốt ve, như vậy sẽ làm hư đứa trẻ vì lần sau cứ phải hát ru nó mới chịu ngủ. Đối với những người có thời gian thì không sao, còn đối với những người bận rộn, điều đó là phù phiếm và xa xỉ.

Giáo sư Trần Văn Khê băn khoăn, cho rằng vì không biết cách ru con mà nhiều bà mẹ trẻ Việt Nam không còn chú trọng việc hát ru con ngủ. Trong khi đó một số người lại nghĩ chỉ cần “ép” cho trẻ nghe thật nhiều thì đứa bé lớn lên sẽ thông minh, lanh lợi. Thế nhưng, đã mấy ai biết rằng trẻ sinh ra và lớn lên không chỉ cần sữa mẹ mà còn cần vòng tay vỗ về, mùi mồ hôi và cả những tiếng ru của mẹ, cùng với sự chăm sóc, nâng niu ân cần của người cha…

Những điều ấy đã một phần lý giải tại sao hát ru bây giờ ngày càng thưa vắng hơn.

VIÊN AN (GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO)

Chuyện chưa kể của ca khúc đầu tiên về Trường Sa

Hơn ba mươi năm qua, nhiều thế hệ ca sĩ như Trọng Tấn, Thanh Thúy, Long Nhật, Khánh Hòa, Quang Long, Hoài Thanh… đã thể hiện thành công bài hát “Gần lắm Trường Sa” của nhạc sĩ Hình Phước Long… Bài hát đã trở thành người bạn tinh thần của các chiến sĩ hải quân ở nơi đầu sóng ngọn gió…

Công dân danh dự của Trường Sa!

“Không xa đâu Trường Sa ơi/ Vẫn gần bên em vì Trường Sa luôn bên anh/ Vẫn gần bên anh vì Trường Sa luôn bên em…” (Gần lắm Trường Sa). Từ khi ca khúc ra đời, nhiều khán thính giả yêu nhạc đã thuộc lòng giai điệu của ca khúc của nhạc sĩ Hình Phước Long.

Khi sáng tác ca khúc “Gần lắm Trường Sa”, nhạc sĩ Hình Phước Long thừa nhận, mình không nghĩ một ngày nào đó, ông lại trở thành “công dân danh dự của Trường Sa”, như Bộ đội Trường Sa đã trìu mến suy tôn mình. Có một câu chuyện cảm động trong năm 2011, khi bà Huỳnh Thị Qua, Việt kiều quê Nha Trang, hiện định cư ở nước Úc đã cùng con cháu trong gia đình góp số tiền tương đương 7 triệu đồng, thông qua văn phòng đại diện báo Cựu Chiến binh Việt Nam ở Khánh Hòa để gửi tặng tác giả “Gần lắm Trường Sa” – nhạc sĩ Hình Phước Long. Số tiền không nhiều, nhưng đó là tấm lòng tri ân của một người con xa đất Việt luôn đau đáu về Trường Sa, biển đảo quê hương Việt Nam yêu dấu. Trong tâm thức bà Qua, nhạc phẩm “Gần lắm Trường Sa” dường như đã trở thành người bạn tâm giao của mình.

Nhạc sĩ Hình Phước Long gắn liền cuộc đời mình với biển Nha Trang, Khánh Hòa. Trong sâu thẳm tâm hồn người nhạc sĩ ao ước được sáng tác ca khúc về biển đảo, về Trường Sa. Nhiều lần đứng trước biển, ông vọng tầm mắt về phía biển xa xăm, hình dung những người lính đang canh giữ vùng trời biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc. Nhiều lần ông đặt viết ca khúc về Trường Sa, nhưng đành buông bút, bất lực trước trang giấy. Phải đến đầu những năm 80 của thế kỷ trước, khi ông đang công tác ở Phòng Văn hóa – Thể thao huyện Cam Ranh (Khánh Hòa), mỗi khi được bộ đội Lữ đoàn 146 Hải quân mời đến nghe kể chuyện về đời sống, tâm tư lính đảo Trường Sa, rồi được xem phim tài liệu “Tổ quốc nơi đầu sóng” của Hãng phim Quân đội nhân dân, ông rất xúc động. “Kỳ vĩ và lãng mạn! Sóng nước mênh mang, chim hải âu bay rợp trời, hình ảnh kiên cường của đảo và giây phút bâng khuâng khi người lính trẻ nhớ về đất liền, bao tình cảm dạt dào chỉ biết bày tỏ qua những cánh thư… Mình quả quyết ghi vào lưu bút của Lữ đoàn: Sẽ có một bài hát về Trường Sa!” – nhạc sĩ Hình Phước Long tâm sự.

Ông thầm hứa tự nhủ với lòng mình, sẽ viết một ca khúc tặng bộ đội Trường Sa như một lời tri ân với sự hy sinh của họ, khi không được gần người thân, chịu nhiều khó khăn thiếu thốn so với người dân trong đất liền.

Người đầu tiên viết ca khúc về Trường Sa

Trước “Gần lắm Trường Sa”, chưa một nhạc sĩ nào viết về Trường Sa. Phải đến năm 1982, trong dịp tập huấn sáng tác ở Nha Trang, một chiều ông đạp xe dạo dọc đường Trần Phú ven biển, giữa những cơn gió biển đang mơn man, lùa vào cơ thể mình, bất chợt nhìn thấy một nữ sinh vận áo dài trắng phấp phới tóc thề, vẻ cô đơn tư lự nhìn xa xăm ra biển. Nhạc sĩ thầm nghĩ, nếu có người yêu ở Trường Sa, em có nghe lời tâm tình theo sóng biển vọng về? Cảm xúc vụt dâng trào, lời ca, giai điệu đến dễ dàng. Bài hát hoàn tất được chép tạm vào tờ giấy trong vỏn vẹn hơn một giờ đồng hồ, rồi ông trở về ngôi nhà nhỏ ở thị trấn Ninh Hòa (nay là thị xã Ninh Hòa): “Mỗi cánh thư về từ đảo xa/ Anh thường nói rằng Trường Sa lắm xa xôi/ Nơi anh đóng quân là một vùng đảo nhỏ/ Bên đồng đội yêu thương/ Chỉ có loài chim biển/ sóng vỗ điệp trùng quanh gành trúc san hô/ Trường Sa ơi!/ Biển đảo quê hương/ Đôi mắt biên cương vẫn sáng long lanh giữa sóng cuồng bão giật/ Không xa đâu Trường Sa ơi!/ Vẫn gần bên anh vì Trường Sa luôn bên em/ Vẫn gần bên em vì Trường Sa luôn bên anh”…

Bài hát viết về người lính, nhưng không mang kết cấu âm hưởng hùng tráng như thường thấy. Giai điệu và lời ca như tâm tình, lắng đọng thiết tha, giản dị, dễ hát, phảng phất chất dân ca, phản ánh chân thành tình cảm của chiến sĩ nơi tiền tiêu xa xôi của Tổ quốc. Người đầu tiên thể hiện ca khúc, không ai khác là ca sĩ Anh Đào. Với chất giọng dân ca trời phú, Anh Đào đã thể hiện thành công ca khúc. Nhạc sĩ Hình Phước Long xác nhận: Dù bài hát được nhiều thế hệ ca sĩ thể hiện, nhưng không ai hát thành công như Anh Đào. Năm 1983, ông viết thêm ca khúc Gặp anh trên đảo Sinh Tồn, tham dự cuộc thi sáng tác do Hội Nhạc sĩ Việt Nam tổ chức và đoạt giải nhì (không có giải Nhất).

Một năm sau, ông mới có cơ hội được ra thăm quần đảo Trường Sa: “Dẫu chưa đặt chân tới nhưng những gì mình cảm nhận và viết về nơi này đều rất chân thực. Khi biết mình, anh em bộ đội đứng chờ trước đó rất lâu. Mình vừa xuống tàu thì họ túa đến vây xung quanh, ôm chầm thân thiết như người quen lâu ngày gặp lại. Quá xúc động, trong khi còn chếnh choáng vì say sóng nhưng anh em bộ đội yêu cầu, mình đã cầm đàn ghi ta đứng hát giữa đảo. Khi ấy, mình và nhiều anh em bộ đội đã khóc”.

KIM HẠNH (GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO)

Tiết lộ của đặc nhiệm Liên Xô tham chiến ở Việt Nam

Cựu chiến binh chiến tranh Việt Nam, nguyên sĩ quan Lính thủy đánh bộ Hải quân Liên xô đại úy hồi hưu Kusainov Sadykov kể lại thời gian tham chiến ở Việt Nam với niềm tự hào đặc biệt.

Nhiệm vụ quốc tế

Sinh ra và lớn lên ở Kusainov Sadykov miền Bắc Kazakhstan. Nhưng hiện nay người cựu chiến binh đang sống tại Vladivostok. Những năm tuyệt vời nhất của đời mình ông đã phục vụ trong lực lượng đặc nhiệm thuộc Lính thủy đánh bộ Hải quân Xô Viết và do đó ông tiếp tục sống ở đó, nơi đơn vị ruột thịt của ông đóng quân.

– Kusainov Sagyndykovich, theo những thông tin chính thức được công bố, Liên bang Xô viết đã giúp đỡ và viện trợ vũ khí trang bị, kỹ thuật và cơ sở vật chất chiến tranh cho Việt Nam trên quy mô to lớn. Trực tiếp tham gia vào các hoạt động tác chiến với tư cách là chuyên gia, cố vấn và huấn luyện viên, những cán bộ kỹ thuật tên lửa và không quân. Bằng cách nào mà ông lại có thể có mặt ở chiến trường Đông Nam Á?

– Vào năm 1966 ngày sau khi hoàn thành đợt huấn luyện tân binh tôi được điều động về thành phố Baltiysk, ở đó, trên cơ sở vật chất của trung đoàn cận vệ số 366 vừa được biên chế mới trung đoàn lính thủy đánh bộ độc lập. Trong thời gian này tôi mơ ước được phục vụ trong lực lượng đổ bộ đường không. Thể lực mạnh mẽ và chiều cao cho phép điều đó. Nhưng tôi gặp may hơn thế, tôi không hề biết, có lực lượng lính thủy đánh bộ như vậy. Vào năm 1956 quyết định của Bộ quốc phòng Liên bang Xô viết đã giải thể toàn bộ lực lượng lính thủy đánh bộ.

Nhưng đến năm 1963, một cuộc diễn tập quân sự lớn tầm chiến lược của khối hiệp ước Vacsava không đạt kết quả như ý muốn do không có lực lượng lính thủy đánh bộ. Các sỹ quan của chúng ta kể rằng sự hình thành lực lượng lính thủy đánh bộ có nguyên nhân chính là chiến tranh Việt Nam. Trong cuộc chiến đã có sự tham gia của lính thủy đánh bộ Mỹ (Sư tử biển). Và những người bạn Việt Nam về kỹ năng tác chiến còn nhiều điểm hạn chế.

Sau một năm rưỡi phục vụ, một số anh em trong đại đội của tôi được đề nghị sang công tác ở Việt Nam nửa năm. Quy trình lựa chọn quân nhân sang Việt Nam do một cán bộ đặc biệt từ bộ tham mưu quân khu thực hiện. Nhìn chung lựa chọn những quân nhân có nước da sẫm và nguồn gốc xuất thân từ châu Á. Trong cuộc nói chuyện riêng tư người cán bộ đặc biệt đề nghị kiểm tra kỹ năng chiến đấu và tình yêu tổ quốc, sẵn sàng tuân thủ mệnh lệnh và sẵn sàng thực hiện sứ mệnh quốc tế vô sản ở Việt Nam.

Từ những nhận xét của người cán bộ, những khuôn mặt và nước da châu Á của chúng tôi rất phù hợp với nhiệm vụ huấn luyện viên quân sự ở Việt Nam. So sánh giữa “Có” và “Không” lắng nghe tiếng nói của người cán bộ KGB thông minh, tôi đã đồng ý. Thời điểm lúc đó là lòng yêu nước cao cả. Tất cả chúng tôi đều tin tưởng vào chiến thắng của chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa xã hội. Đồng thời dòng máu trẻ trung đã lên tiếng, chúng tôi muốn gặt hái những chiến công.

– Cảm giác đầu tiên là gì khi ông khi tới Việt Nam, nhiệm vụ của ông là gì?

– Cảm giác đầu tiên – sự lo lắng. Tôi cảm thấy lo lắng khi máy bay vận tải quân sự của chúng tôi hạ cánh xuống vùng núi non. Có một số căn cứ quân sự của những người anh em Việt Nam xây dựng ở khu vực đó. Thông qua các căn cứ này đã cung cấp vũ khí trang bị và những chiến sĩ của miền Bắc Việt Nam vào chiến đấu ở phía nam và phía tây của Nam Việt Nam. Đây là những con đường bí mật, nhưng sau này nổi tiếng thế giới với tên gọi “Đường mòn Hồ Chí Minh”.

Mặc dù trong thực tế nó không phải chỉ là một con đường, mà là cả một hệ thống hạ tầng phức tạp của những con đường xuyên qua núi rừng liên kết ba nước Việt Nam, Campuchia và Lào. Đến năm 1968, “đường mòn” đã trở thành một cơ sở hạ tầng phức tạp với các bệnh viện, kho tàng dưới lòng đất. Một số khu vực đường đã được trải nhựa và có thể được sử dụng như một đường băng dã chiến.

Khó khăn nhất là làm quen với khí hậu ẩm thấp của rừng nhiệt đới, và chúng tôi phải học cách thích nghi thật nhanh. Điều đó cũng dễ hiểu, trên thực tế cuộc chiến tranh diễn ra trên Miền Nam Việt Nam là cuộc chiến tranh của người Việt Nam bằng chính lực lượng của mình. Đấy là Quân giải phóng Miền Nam Việt Nam – lực lượng dân quân du kích, trang bị bằng vũ khí tự có và tự huấn luyện với chất lượng không cao. Trên thực tế, những chiến sĩ du kích chỉ làm được nhiệm vụ quan sát, trinh sát tình hình địch và không có khả năng chống lại những cuộc tấn công quy mô lớn của quân đội Mỹ. Lính Mỹ gọi họ là VC.

Cũng có những lực lượng quân đội chính quy, được trang bị tốt và huấn luyện đầy đủ. Phần lớn quân số trong đó là những chiến sĩ, quân nhân ngoài Miền Bắc. Các lực lượng vũ trang từ miền Bắc được sự giúp đỡ và huấn luyện của các chuyên gia quân sự Xô Viết, đồng thời được trang bị vũ khí khí tài của Liên xô. Do đó, kỹ năng và năng lực tác chiến tốt hơn rất nhiều.

Tôi và những người lính thủy đánh bộ Xô Viết được giao nhiệm vụ trong vòng hai tháng phải huấn luyện hai đội biệt động với tổng số quân đến 50 người. Sau đó thì chúng tôi cũng trở thành những người tham mưu trực tiếp. Chỉ huy của chúng tôi là Trung tá Nguyễn Đình Kỷ – tôi nghĩ vậy, anh ấy cũng biết tiếng Nga, vì thế đôi khi vui vẻ, tôi dạy anh ấy tiếng Kazakhstan. Anh ấy cũng nói được vài câu. Anh ấy nói, đấy là những từ cần thiết nhất mà người Việt ở Kazakhstan cần biết. Tôi hỏi anh ấy, tiếng Việt để tỏ lòng biết ơn là thế nào, anh ấy dạy tôi từ “Cảm ơn”, lòng tốt của anh ấy làm tôi cảm động.

Nói chung, tất cả những người Việt Nam đều là những học trò rất năng khiếu. Họ có sức chịu đựng rất cao, không sợ khó khăn gian khổ, điều vô cùng quan trọng đối với lính thủy đánh bộ, đồng thời họ rất dũng cảm và có tinh thần chiến đấu rất cao.

Ngoài ra, rất nhiều chiến sĩ biệt động Việt Nam có trình độ võ thuật cao và kỹ thuật chiến đấu đặc sắc, hình như đó là Nhất Nam, một môn võ rất cổ truyền của Miền Nam. Điều làm ảnh hưởng đến công tác huấn luyện chỉ là trình độ học vấn thấp và rào cản ngôn ngữ. Đối với tôi, áp lực tinh thần cũng rất lớn khi có mặt ở miền đất xa lạ. Nhưng mỗi buổi sáng tôi thức dậy bao giờ cũng là ý nghĩ tôi đã làm đúng. Tôi là chiến sĩ và đây là sứ mệnh quốc tế vô sản của tôi.

Mệnh lệnh: “Trở thành người anh hùng”

– Trong các chiến dịch nào của quân Giải phóng ông được tham gia? Công tác huấn luyện của ông có mang lại những kết quả tốt đẹp cho những người lính biệt động?

– Những học trò, chiến sĩ của tôi khi quay trở lại căn cứ bao giờ cũng là chiến thắng. Không thể khác được. Khẩu hiệu của lính thủy đánh bộ là: “Ở đâu có chúng tôi – ở đó là chiến thắng” những người bạn chiến đấu của tôi hiểu rõ điều đó.

Tôi đặc biệt nhớ chiến dịch Tổng tấn công và nổi dậy Mậu Thân năm 1968 – chiến dịch “Tết”, bắt đầu vào ngày Tết cổ truyền của người Việt Nam. Vào tháng giêng năm 1968, các lực lượng vũ trang Miền Bắc đã khóa cứng quân đội Mỹ ở khu vực gần khu phi quân sự – Khe Sanh. Đồng thời, lực lượng vũ trang miền Nam Việt Nam tiến hành cuộc tổng tiến công vào hầu hết các thành phố và thị trấn trên toàn Miền Nam, bao gồm cả Đà Nẵng, Kon Tum và Pleiku. Các nhóm nhỏ biệt động được giao nhiệm vụ tấn công vào các mục tiêu riêng biệt đã được lựa chọn. Tôi có nhiệm vụ chuẩn bị cho một phân đội đặc biệt và nhiệm vụ đã được hoàn thành xuất sắc.

Trong tổng số các trận chiến đấu nói chung, phân đội của tôi đã phá hủy hoàn toàn ba căn cứ quân sự hạng trung cung cấp cơ sở vật chất chiến tranh của NATO. Những người bạn chiến đấu của tôi đã tiến hành 4 cuộc phục kích thành công. Trong trận chiến đã bắt được 5 viên sĩ quan Mỹ…

– Tổng thời gian ông ở Việt Nam là bao lâu?

– Nửa năm, cho đến khi bị thương. Sau khi hồi phục, có đề nghị cho ra quân, nhưng tôi quyết định tiếp tục sự nghiệp của mình trong quân đội và đăng ký học tại Trường sỹ quan quân sự chung cao cấp Viễn Đông. Nói chung, thời tuổi trẻ hầu như ai cũng muốn là anh hùng và trong tôi luôn có dòng máu anh hùng…Tôi đã trải qua cuộc chiến tranh này như những người bạn – người đồng chí Việt Nam.

Trong những năm gần đây bắt đầu có những hoạt động của những đại diện các tổ chức cựu chiến binh chiến tranh Việt Nam ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Ở Moskva thường xuyên có những cuộc gặp gỡ của những người bạn chiến đấu. Cơ bản là những quân nhân, chuyên gia phòng không, kỹ thuật tên lửa và không quân. Hàng năm các cựu chiến binh Việt Nam gặp nhau, ôn lại chuyện cũ với niềm tự hào chiến thắng. Theo lời của Kusainov Sadykova, đây chỉ là một phần của những người thực sự tham gia vào các cuộc chiến tranh giải phóng. Nhiều người đã hy sinh trong quá trình thực hiện nhiệm vụ quốc tế, một số sau đó hy sinh ở Afghanistan.

Theo TIỀN PHONG

Một chiều ngược gió

Em ngược đường, ngược nắng để yêu anh

Ngược phố tan tầm, ngược chiều gió thổi

Ngược lòng mình tìm về nông nổi

Lãng du đi vô định cánh chim trời

Em ngược thời gian, em ngược không gian

Ngược đời thường bon chen tìm về mê đắm

Ngược trái tim tự bao giờ chai lặng

Em đánh thức nỗi buồn, em gợi khát khao xanh

Mang bao điều em muốn nói cùnganh

Chợt sững lại trước cây mùa trút lá

Trái đất sẽ thế nào khi mầu xanh không còn nữa

Và sẽ thế nào khi trong anh không em?

Em trở về im lặng của đêm

Chẳng còn nữa người đông và bụi đỏ

Phố bỗng buồn tênh, bờ vai hút gió

Riêng chiều nay – em biết, một mình em ….

Lịch sử ra đời Ngày thương binh liệt sỹ 27 tháng 7

Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời chưa được bao lâu, thực dân Pháp đã trở lại xâm lược nước ta. “Không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”, quân dân ta đã anh dũng chiến đấu chặn tay quân xâm lược. Trong những tháng, năm đầu của cuộc kháng chiến, nhiều đồng bào, chiến sĩ đã ngã xuống, đã đổ máu trên các chiến trường.

Khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ – ngày 19 tháng 12 năm 1946, theo lời kêu gọi cứu nước của Bác Hồ, nhân dân cả nước nhất tề đứng lên kháng chiến với tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Số người bị thương và hy sinh trong chiến đấu tăng lên, thương binh liệt sĩ trở thành vấn đề lớn.

Trước yêu cầu bức xúc đó, cùng với việc kêu gọi giúp đỡ thương binh gia đình tử sĩ, ngày 16/2/1947 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 20/SL “Quy định chế độ hưu bổng thương tật và tiền tuất tử sĩ”. Đây là văn bản pháp quy đầu tiên khẳng định vị trí quan trọng của công tác thương binh liệt sĩ đối với công cuộc kháng chiến cứu nước của dân tộc.

Để chỉ đạo công tác thương binh tử sĩ trong cả nước, ngày 26/2/1947, Phòng thương binh thuộc Chính trị Cục, quân đội quốc gia Việt Nam được thành lập. Đầu tháng 7/1947 Ban Vận động tổ chức “Ngày Thương binh toàn quốc” được thành lập.

Cùng thời gian này, tại xóm Bàn Cờ, xã Hùng Sơn, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, các đại biểu Tổng bộ Việt Minh, Trung ương Hội Phụ nữ cứu quốc, Trung ương Đoàn Thanh niên cứu quốc, Nha Thông tin tuyên truyền và một số địa phương đã dự một cuộc họp. Tại cuộc họp này, theo đề nghị của đại diện Chính trị Cục quân đội Quốc gia Việt Nam các đại biểu đã nhất trí chọn ngày 27 tháng 7 hàng năm là ngày Thương binh toàn quốc.

Chiều ngày 27/7/1947, “Ngày thương binh toàn quốc”, mở đầu bằng cuộc mít tinh lớn được tổ chức tại xã Hùng Sơn, huyện Đại Từ (Thái Nguyên). Tại cuộc mít tinh, các đại biểu đã nghe đại diện Chính trị Cục Quân đội Quốc gia Việt Nam đọc thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Ban Thường trực của Ban Tổ chức ngày thương binh toàn quốc.

Trong thư Bác viết:

“… Thương binh là những người đã hy sinh xương máu để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ đồng bào, vì lợi ích của Tổ quốc, của đồng bào mà các đồng chí đó bị ốm yếu…”.

“… Vì vậy, Tổ quốc và đồng bào phải biết ơn, phải giúp đỡ những người con anh dũng ấy…”.

Từ đó, đến ngày 27/7 hàng năm, Bác Hồ đều gửi thư thăm hỏi, động viên các thương binh, gia đình liệt sĩ và nhắc nhở mọi người phải biết ơn và hết lòng giúp đỡ thương binh, gia đình liệt sĩ.

Ngày thương binh, tử sĩ 27/7/1948, trong Lời kêu gọi, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết:

“… Thương binh và tử sĩ đã hy sinh cho Tổ quốc, đã hy sinh cho đồng bào.

Để báo đáp công ơn đó, Chính phủ phải tìm mọi cách để giúp đỡ anh em thương binh và gia đình tử sĩ.

Tôi cũng rất mong đồng bào sẵn sàng giúp đỡ họ về mặt vật chất và tinh thần…”.

Nhân dịp kỉ niệm 50 năm ngày thương binh liệt sĩ, ngày 27/7/1997, tại xóm Bàn Cờ, xã Hùng Sơn, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, nơi chứng kiến sự ra đời của ngày Thương binh toàn quốc, Bộ Lao động – Thương binh và xã hội cùng Uỷ ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên đã khánh thành khu kỉ niệm 27/7 và dựng bia kỉ niệm với nội dung được khắc trên bia:

“NƠI ĐÂY, NGÀY 27 THÁNG 7 NĂM 1947, 300 CÁN BỘ, BỘ ĐỘI VÀ ĐẠI DIỆN CÁC TẦNG LỚP NHÂN DÂN ĐỊA PHƯƠNG HỌP MẶT NGHE CÔNG BỐ BỨC THƯ CỦA BÁC HỒ, GHI NHẬN SỰ RA ĐỜI CỦA NGÀY THƯƠNG BINH LIỆT SĨ”.

Cũng nơi này, vào dịp kỉ niệm 50 năm ngày thương binh liệt sĩ (12/7/1997) đã được Nhà nước công nhận là di tích lịch sử.

Theo TẠP CHÍ DÂN TỘC