Tiết lộ của đặc nhiệm Liên Xô tham chiến ở Việt Nam

Cựu chiến binh chiến tranh Việt Nam, nguyên sĩ quan Lính thủy đánh bộ Hải quân Liên xô đại úy hồi hưu Kusainov Sadykov kể lại thời gian tham chiến ở Việt Nam với niềm tự hào đặc biệt.

Nhiệm vụ quốc tế

Sinh ra và lớn lên ở Kusainov Sadykov miền Bắc Kazakhstan. Nhưng hiện nay người cựu chiến binh đang sống tại Vladivostok. Những năm tuyệt vời nhất của đời mình ông đã phục vụ trong lực lượng đặc nhiệm thuộc Lính thủy đánh bộ Hải quân Xô Viết và do đó ông tiếp tục sống ở đó, nơi đơn vị ruột thịt của ông đóng quân.

– Kusainov Sagyndykovich, theo những thông tin chính thức được công bố, Liên bang Xô viết đã giúp đỡ và viện trợ vũ khí trang bị, kỹ thuật và cơ sở vật chất chiến tranh cho Việt Nam trên quy mô to lớn. Trực tiếp tham gia vào các hoạt động tác chiến với tư cách là chuyên gia, cố vấn và huấn luyện viên, những cán bộ kỹ thuật tên lửa và không quân. Bằng cách nào mà ông lại có thể có mặt ở chiến trường Đông Nam Á?

– Vào năm 1966 ngày sau khi hoàn thành đợt huấn luyện tân binh tôi được điều động về thành phố Baltiysk, ở đó, trên cơ sở vật chất của trung đoàn cận vệ số 366 vừa được biên chế mới trung đoàn lính thủy đánh bộ độc lập. Trong thời gian này tôi mơ ước được phục vụ trong lực lượng đổ bộ đường không. Thể lực mạnh mẽ và chiều cao cho phép điều đó. Nhưng tôi gặp may hơn thế, tôi không hề biết, có lực lượng lính thủy đánh bộ như vậy. Vào năm 1956 quyết định của Bộ quốc phòng Liên bang Xô viết đã giải thể toàn bộ lực lượng lính thủy đánh bộ.

Nhưng đến năm 1963, một cuộc diễn tập quân sự lớn tầm chiến lược của khối hiệp ước Vacsava không đạt kết quả như ý muốn do không có lực lượng lính thủy đánh bộ. Các sỹ quan của chúng ta kể rằng sự hình thành lực lượng lính thủy đánh bộ có nguyên nhân chính là chiến tranh Việt Nam. Trong cuộc chiến đã có sự tham gia của lính thủy đánh bộ Mỹ (Sư tử biển). Và những người bạn Việt Nam về kỹ năng tác chiến còn nhiều điểm hạn chế.

Sau một năm rưỡi phục vụ, một số anh em trong đại đội của tôi được đề nghị sang công tác ở Việt Nam nửa năm. Quy trình lựa chọn quân nhân sang Việt Nam do một cán bộ đặc biệt từ bộ tham mưu quân khu thực hiện. Nhìn chung lựa chọn những quân nhân có nước da sẫm và nguồn gốc xuất thân từ châu Á. Trong cuộc nói chuyện riêng tư người cán bộ đặc biệt đề nghị kiểm tra kỹ năng chiến đấu và tình yêu tổ quốc, sẵn sàng tuân thủ mệnh lệnh và sẵn sàng thực hiện sứ mệnh quốc tế vô sản ở Việt Nam.

Từ những nhận xét của người cán bộ, những khuôn mặt và nước da châu Á của chúng tôi rất phù hợp với nhiệm vụ huấn luyện viên quân sự ở Việt Nam. So sánh giữa “Có” và “Không” lắng nghe tiếng nói của người cán bộ KGB thông minh, tôi đã đồng ý. Thời điểm lúc đó là lòng yêu nước cao cả. Tất cả chúng tôi đều tin tưởng vào chiến thắng của chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa xã hội. Đồng thời dòng máu trẻ trung đã lên tiếng, chúng tôi muốn gặt hái những chiến công.

– Cảm giác đầu tiên là gì khi ông khi tới Việt Nam, nhiệm vụ của ông là gì?

– Cảm giác đầu tiên – sự lo lắng. Tôi cảm thấy lo lắng khi máy bay vận tải quân sự của chúng tôi hạ cánh xuống vùng núi non. Có một số căn cứ quân sự của những người anh em Việt Nam xây dựng ở khu vực đó. Thông qua các căn cứ này đã cung cấp vũ khí trang bị và những chiến sĩ của miền Bắc Việt Nam vào chiến đấu ở phía nam và phía tây của Nam Việt Nam. Đây là những con đường bí mật, nhưng sau này nổi tiếng thế giới với tên gọi “Đường mòn Hồ Chí Minh”.

Mặc dù trong thực tế nó không phải chỉ là một con đường, mà là cả một hệ thống hạ tầng phức tạp của những con đường xuyên qua núi rừng liên kết ba nước Việt Nam, Campuchia và Lào. Đến năm 1968, “đường mòn” đã trở thành một cơ sở hạ tầng phức tạp với các bệnh viện, kho tàng dưới lòng đất. Một số khu vực đường đã được trải nhựa và có thể được sử dụng như một đường băng dã chiến.

Khó khăn nhất là làm quen với khí hậu ẩm thấp của rừng nhiệt đới, và chúng tôi phải học cách thích nghi thật nhanh. Điều đó cũng dễ hiểu, trên thực tế cuộc chiến tranh diễn ra trên Miền Nam Việt Nam là cuộc chiến tranh của người Việt Nam bằng chính lực lượng của mình. Đấy là Quân giải phóng Miền Nam Việt Nam – lực lượng dân quân du kích, trang bị bằng vũ khí tự có và tự huấn luyện với chất lượng không cao. Trên thực tế, những chiến sĩ du kích chỉ làm được nhiệm vụ quan sát, trinh sát tình hình địch và không có khả năng chống lại những cuộc tấn công quy mô lớn của quân đội Mỹ. Lính Mỹ gọi họ là VC.

Cũng có những lực lượng quân đội chính quy, được trang bị tốt và huấn luyện đầy đủ. Phần lớn quân số trong đó là những chiến sĩ, quân nhân ngoài Miền Bắc. Các lực lượng vũ trang từ miền Bắc được sự giúp đỡ và huấn luyện của các chuyên gia quân sự Xô Viết, đồng thời được trang bị vũ khí khí tài của Liên xô. Do đó, kỹ năng và năng lực tác chiến tốt hơn rất nhiều.

Tôi và những người lính thủy đánh bộ Xô Viết được giao nhiệm vụ trong vòng hai tháng phải huấn luyện hai đội biệt động với tổng số quân đến 50 người. Sau đó thì chúng tôi cũng trở thành những người tham mưu trực tiếp. Chỉ huy của chúng tôi là Trung tá Nguyễn Đình Kỷ – tôi nghĩ vậy, anh ấy cũng biết tiếng Nga, vì thế đôi khi vui vẻ, tôi dạy anh ấy tiếng Kazakhstan. Anh ấy cũng nói được vài câu. Anh ấy nói, đấy là những từ cần thiết nhất mà người Việt ở Kazakhstan cần biết. Tôi hỏi anh ấy, tiếng Việt để tỏ lòng biết ơn là thế nào, anh ấy dạy tôi từ “Cảm ơn”, lòng tốt của anh ấy làm tôi cảm động.

Nói chung, tất cả những người Việt Nam đều là những học trò rất năng khiếu. Họ có sức chịu đựng rất cao, không sợ khó khăn gian khổ, điều vô cùng quan trọng đối với lính thủy đánh bộ, đồng thời họ rất dũng cảm và có tinh thần chiến đấu rất cao.

Ngoài ra, rất nhiều chiến sĩ biệt động Việt Nam có trình độ võ thuật cao và kỹ thuật chiến đấu đặc sắc, hình như đó là Nhất Nam, một môn võ rất cổ truyền của Miền Nam. Điều làm ảnh hưởng đến công tác huấn luyện chỉ là trình độ học vấn thấp và rào cản ngôn ngữ. Đối với tôi, áp lực tinh thần cũng rất lớn khi có mặt ở miền đất xa lạ. Nhưng mỗi buổi sáng tôi thức dậy bao giờ cũng là ý nghĩ tôi đã làm đúng. Tôi là chiến sĩ và đây là sứ mệnh quốc tế vô sản của tôi.

Mệnh lệnh: “Trở thành người anh hùng”

– Trong các chiến dịch nào của quân Giải phóng ông được tham gia? Công tác huấn luyện của ông có mang lại những kết quả tốt đẹp cho những người lính biệt động?

– Những học trò, chiến sĩ của tôi khi quay trở lại căn cứ bao giờ cũng là chiến thắng. Không thể khác được. Khẩu hiệu của lính thủy đánh bộ là: “Ở đâu có chúng tôi – ở đó là chiến thắng” những người bạn chiến đấu của tôi hiểu rõ điều đó.

Tôi đặc biệt nhớ chiến dịch Tổng tấn công và nổi dậy Mậu Thân năm 1968 – chiến dịch “Tết”, bắt đầu vào ngày Tết cổ truyền của người Việt Nam. Vào tháng giêng năm 1968, các lực lượng vũ trang Miền Bắc đã khóa cứng quân đội Mỹ ở khu vực gần khu phi quân sự – Khe Sanh. Đồng thời, lực lượng vũ trang miền Nam Việt Nam tiến hành cuộc tổng tiến công vào hầu hết các thành phố và thị trấn trên toàn Miền Nam, bao gồm cả Đà Nẵng, Kon Tum và Pleiku. Các nhóm nhỏ biệt động được giao nhiệm vụ tấn công vào các mục tiêu riêng biệt đã được lựa chọn. Tôi có nhiệm vụ chuẩn bị cho một phân đội đặc biệt và nhiệm vụ đã được hoàn thành xuất sắc.

Trong tổng số các trận chiến đấu nói chung, phân đội của tôi đã phá hủy hoàn toàn ba căn cứ quân sự hạng trung cung cấp cơ sở vật chất chiến tranh của NATO. Những người bạn chiến đấu của tôi đã tiến hành 4 cuộc phục kích thành công. Trong trận chiến đã bắt được 5 viên sĩ quan Mỹ…

– Tổng thời gian ông ở Việt Nam là bao lâu?

– Nửa năm, cho đến khi bị thương. Sau khi hồi phục, có đề nghị cho ra quân, nhưng tôi quyết định tiếp tục sự nghiệp của mình trong quân đội và đăng ký học tại Trường sỹ quan quân sự chung cao cấp Viễn Đông. Nói chung, thời tuổi trẻ hầu như ai cũng muốn là anh hùng và trong tôi luôn có dòng máu anh hùng…Tôi đã trải qua cuộc chiến tranh này như những người bạn – người đồng chí Việt Nam.

Trong những năm gần đây bắt đầu có những hoạt động của những đại diện các tổ chức cựu chiến binh chiến tranh Việt Nam ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Ở Moskva thường xuyên có những cuộc gặp gỡ của những người bạn chiến đấu. Cơ bản là những quân nhân, chuyên gia phòng không, kỹ thuật tên lửa và không quân. Hàng năm các cựu chiến binh Việt Nam gặp nhau, ôn lại chuyện cũ với niềm tự hào chiến thắng. Theo lời của Kusainov Sadykova, đây chỉ là một phần của những người thực sự tham gia vào các cuộc chiến tranh giải phóng. Nhiều người đã hy sinh trong quá trình thực hiện nhiệm vụ quốc tế, một số sau đó hy sinh ở Afghanistan.

Theo TIỀN PHONG

Một chiều ngược gió

Em ngược đường, ngược nắng để yêu anh

Ngược phố tan tầm, ngược chiều gió thổi

Ngược lòng mình tìm về nông nổi

Lãng du đi vô định cánh chim trời

Em ngược thời gian, em ngược không gian

Ngược đời thường bon chen tìm về mê đắm

Ngược trái tim tự bao giờ chai lặng

Em đánh thức nỗi buồn, em gợi khát khao xanh

Mang bao điều em muốn nói cùnganh

Chợt sững lại trước cây mùa trút lá

Trái đất sẽ thế nào khi mầu xanh không còn nữa

Và sẽ thế nào khi trong anh không em?

Em trở về im lặng của đêm

Chẳng còn nữa người đông và bụi đỏ

Phố bỗng buồn tênh, bờ vai hút gió

Riêng chiều nay – em biết, một mình em ….

Lịch sử ra đời Ngày thương binh liệt sỹ 27 tháng 7

Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời chưa được bao lâu, thực dân Pháp đã trở lại xâm lược nước ta. “Không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”, quân dân ta đã anh dũng chiến đấu chặn tay quân xâm lược. Trong những tháng, năm đầu của cuộc kháng chiến, nhiều đồng bào, chiến sĩ đã ngã xuống, đã đổ máu trên các chiến trường.

Khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ – ngày 19 tháng 12 năm 1946, theo lời kêu gọi cứu nước của Bác Hồ, nhân dân cả nước nhất tề đứng lên kháng chiến với tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Số người bị thương và hy sinh trong chiến đấu tăng lên, thương binh liệt sĩ trở thành vấn đề lớn.

Trước yêu cầu bức xúc đó, cùng với việc kêu gọi giúp đỡ thương binh gia đình tử sĩ, ngày 16/2/1947 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 20/SL “Quy định chế độ hưu bổng thương tật và tiền tuất tử sĩ”. Đây là văn bản pháp quy đầu tiên khẳng định vị trí quan trọng của công tác thương binh liệt sĩ đối với công cuộc kháng chiến cứu nước của dân tộc.

Để chỉ đạo công tác thương binh tử sĩ trong cả nước, ngày 26/2/1947, Phòng thương binh thuộc Chính trị Cục, quân đội quốc gia Việt Nam được thành lập. Đầu tháng 7/1947 Ban Vận động tổ chức “Ngày Thương binh toàn quốc” được thành lập.

Cùng thời gian này, tại xóm Bàn Cờ, xã Hùng Sơn, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, các đại biểu Tổng bộ Việt Minh, Trung ương Hội Phụ nữ cứu quốc, Trung ương Đoàn Thanh niên cứu quốc, Nha Thông tin tuyên truyền và một số địa phương đã dự một cuộc họp. Tại cuộc họp này, theo đề nghị của đại diện Chính trị Cục quân đội Quốc gia Việt Nam các đại biểu đã nhất trí chọn ngày 27 tháng 7 hàng năm là ngày Thương binh toàn quốc.

Chiều ngày 27/7/1947, “Ngày thương binh toàn quốc”, mở đầu bằng cuộc mít tinh lớn được tổ chức tại xã Hùng Sơn, huyện Đại Từ (Thái Nguyên). Tại cuộc mít tinh, các đại biểu đã nghe đại diện Chính trị Cục Quân đội Quốc gia Việt Nam đọc thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Ban Thường trực của Ban Tổ chức ngày thương binh toàn quốc.

Trong thư Bác viết:

“… Thương binh là những người đã hy sinh xương máu để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ đồng bào, vì lợi ích của Tổ quốc, của đồng bào mà các đồng chí đó bị ốm yếu…”.

“… Vì vậy, Tổ quốc và đồng bào phải biết ơn, phải giúp đỡ những người con anh dũng ấy…”.

Từ đó, đến ngày 27/7 hàng năm, Bác Hồ đều gửi thư thăm hỏi, động viên các thương binh, gia đình liệt sĩ và nhắc nhở mọi người phải biết ơn và hết lòng giúp đỡ thương binh, gia đình liệt sĩ.

Ngày thương binh, tử sĩ 27/7/1948, trong Lời kêu gọi, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết:

“… Thương binh và tử sĩ đã hy sinh cho Tổ quốc, đã hy sinh cho đồng bào.

Để báo đáp công ơn đó, Chính phủ phải tìm mọi cách để giúp đỡ anh em thương binh và gia đình tử sĩ.

Tôi cũng rất mong đồng bào sẵn sàng giúp đỡ họ về mặt vật chất và tinh thần…”.

Nhân dịp kỉ niệm 50 năm ngày thương binh liệt sĩ, ngày 27/7/1997, tại xóm Bàn Cờ, xã Hùng Sơn, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, nơi chứng kiến sự ra đời của ngày Thương binh toàn quốc, Bộ Lao động – Thương binh và xã hội cùng Uỷ ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên đã khánh thành khu kỉ niệm 27/7 và dựng bia kỉ niệm với nội dung được khắc trên bia:

“NƠI ĐÂY, NGÀY 27 THÁNG 7 NĂM 1947, 300 CÁN BỘ, BỘ ĐỘI VÀ ĐẠI DIỆN CÁC TẦNG LỚP NHÂN DÂN ĐỊA PHƯƠNG HỌP MẶT NGHE CÔNG BỐ BỨC THƯ CỦA BÁC HỒ, GHI NHẬN SỰ RA ĐỜI CỦA NGÀY THƯƠNG BINH LIỆT SĨ”.

Cũng nơi này, vào dịp kỉ niệm 50 năm ngày thương binh liệt sĩ (12/7/1997) đã được Nhà nước công nhận là di tích lịch sử.

Theo TẠP CHÍ DÂN TỘC

Thời khắc bi tráng của con tàu số 645

Sau lưng chúng tôi bỗng bùng lên cột lửa cùng tiếng nổ vang dội, một luồng bão kéo theo ngọn sóng cực mạnh hất chúng tôi về phía rừng đước…

Trong ngõ 301, phố Ngô Gia Tự, quận Hải An, thành phố Hải Phòng có một sĩ quan hải quân đã nghỉ hưu, tóc bạc trắng còn khỏe mạnh, minh mẫn. Ông tên là Thẩm Hồng Lăng, 68 tuổi. Giống như nhiều cựu chiến binh khác, giờ ông sống vui cùng con cháu và luôn quan tâm gần gũi các thanh, thiếu niên xung quanh. Đến Ngày Thương binh liệt sĩ (27/7) hàng năm, ông thường kể cho thế hệ trẻ nghe câu chuyện chiến đấu của đồng đội “Tàu không số”; về giờ phút hy sinh bi tráng trên biển Đông của người Chính trị viên tàu 645: Anh hùng, liệt sĩ Nguyễn Văn Hiệu.

Trong thư mục lịch sử chiến tranh cách mạng Việt Nam, “Đoàn tàu không số”, “Đường mòn Hồ Chí Minh trên biển” gắn với trang sử vô cùng anh dũng, vẻ vang của một đơn vị đặc biệt thuộc Quân chủng Hải quân thời chống Mỹ. Đó là Lữ đoàn 125 thân yêu của tôi, gồm những tàu vận tải, bên ngoài không ghi số hiệu, nhưng mỗi tàu có bí số riêng, như: 43, 56, 164, 235… Lữ đoàn ngày đó chuyên làm nhiệm vụ chở vũ khí, khí tài cho chiến trường Nam Bộ. Tàu không số được ngụy trang như tàu đánh bắt cá xa bờ của ngư dân, trang bị phương tiện hàng hải ngoài la bàn và máy đo tốc độ bằng chân vịt có thêm ống nhòm, máy vô tuyến điện sóng ngắn 108 liên hệ với trung tâm bằng tín hiệu mooc và đèn pin để bắt tín hiệu với đất liền khi tàu gần vào bến. Mỗi tàu còn được cài đặt sẵn những khối bộc phá lớn ở hầm tàu, phòng khi bị địch phát hiện không còn đường thoát, để bảo đảm bí mật tuyệt đối, lâu dài con đường vận chuyển trên biển thì cho nổ tung. Chuyến tàu không số đầu tiên của Thuyền trưởng Nguyễn Bất xuất phát đêm 30 Tết năm 1960 từ một lạch nhỏ ở miền Trung, đến vùng biển tỉnh Quảng Nam bất ngờ đụng địch, hầu hết chiến sĩ đã hy sinh. Chuyến thứ hai do Thuyền trưởng Lê Văn Một chỉ huy, xuất phát ngày 18/4/1962 tại lạch Trung Kiên, sau gần một tháng lênh đênh trên biển đã cặp bến Vàm Lũ, Cà Mau an toàn, chính thức khai thông Đường Hồ Chí Minh trên biển. Trong vòng 10 năm sau những chuyến đầu tiên ấy, có hàng trăm lượt tàu không số liên tục đi làm nhiệm vụ, vận chuyển được hàng chục nghìn tấn vũ khí, đạn dược cho chiến trường. Trong số đó cũng có một số trường hợp đụng địch, cuộc chiến đấu không cân sức diễn ra, cuối cùng người chiến sĩ tàu không số hiên ngang lựa chọn phương án “nổ tung”, không để phương tiện và hàng rơi vào tay giặc.

Con tàu không số của chúng tôi mang bí số 645, đến thời điểm đầu năm 1972 đã thực hiện được 13 chuyến vào Nam thành công. Chuyến thứ 14 chở hàng cho Quân khu 9 bị trục trặc. Hai lần nhổ neo đụng tàu địch phải quay lại. Lần thứ ba, xuất hành ngày 12/4/1972 lúc đầu trót lọt, đến vùng biển quốc tế, xuôi xuống phía biển Philippin, vòng qua Indonesia, Malaysia. Đi được 11 ngày đêm đến vịnh Thái Lan, cách đảo Phú Quốc chừng 60 hải lý, định đêm hôm đó sẽ cập bến. Buổi chiều, khi tàu đang hướng về phía đảo Phú Quốc, chúng tôi nhận được bức điện báo ngắn khẩn cấp từ Bộ Tổng tham mưu: “Bến động”…

Tôi phải kể đôi nét về những thành viên của tàu 645. Tàu có 22 cán bộ, chiến sĩ. Thuyền trưởng Lê Hà quê ở miền Nam, ra Bắc năm 1961 được cử đi học sĩ quan hải quân, năm 1963 trở lại chiến trường, làm Thuyền trưởng tàu không số. Chính trị viên, Trung úy Nguyễn Văn Hiệu, anh cả của đơn vị, lúc đó vừa tròn 40 tuổi. Anh Hiệu quê Quảng Nam, có vợ, hai con ở phường Máy Tơ, quận Hồng Bàng, Hải Phòng. Anh dáng cao to, đẹp trai, tính tình hiền lành, vui vẻ, được mọi người rất mến. Cánh thủy thủ chúng tôi thì đều tuổi mới ngoài đôi mươi, được tuyển chọn kỹ từ các đơn vị hải quân, mỗi lần ra khơi là xác định “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.

“Bến động”- mật báo về tình hình nguy cấp sắp gặp phải, cấp trên yêu cầu tàu quay mũi ngay, chạy ra vùng biển quốc tế. Lúc đó chúng tôi suy nghĩ, chỉ khoảng nửa đêm hoặc chậm lắm gần sáng là có thể vào bến, phải quay trở lại là điều không ai muốn. Chỉ huy tàu hội ý nhanh, vì sự an toàn, bí mật của bến nhận hàng mà phải nhổ neo quay ngược ra vịnh Thái Lan. Khoảng 19 giờ, đã thấy một chiến hạm địch đang đuổi theo. Chúng rọi đèn pha sáng rực, đánh tín hiệu hỏi từ đâu đến và đi đâu? Chúng tôi trả lời: “Từ Trung Quốc xuống, bị lạc”. Địch phát tín hiệu dừng tàu. Chúng tôi lập tức tăng tốc hướng ra biển Đông nhằm thoát khỏi tầm pháo của chúng. Tàu địch bám theo. Phát hiện phía ngoài khơi có thêm 3 tàu địch nữa, vậy là tàu 645 bé nhỏ đang bị kẹp giữa vòng vây. Địch phát loa gọi hàng và bắn một loạt đạn uy hiếp phía mũi tàu. Chúng tôi vẫn cố tăng tốc và trò mèo vờn chuột kéo dài đến rạng sáng ngày hôm sau. Khu vực biển chúng tôi đang bị truy đuổi gần về phía đuôi của đảo Phú Quốc được phù sa bồi đắp, lại đang lúc nước ròng có thể lội xuống được. Chi ủy cùng chỉ huy tàu hội ý chớp nhoáng, ra quyết định khắc nghiệt nhất: nổ tàu! Tất cả nhảy xuống biển, chỉ để một người ở lại điểm hỏa khối thuốc nổ và thoát ra sau. Người nhận trách nhiệm sau cùng đó không ai khác, là người anh cả của tàu chúng tôi. Trong giây phút định mệnh ấy, tôi chợt thấy trên gương mặt vuông vức của Chính trị viên Nguyễn Văn Hiệu toát ra vẻ bình tĩnh lạ thường. Anh bắt tay từng người với ánh mắt trìu mến thay cho lời từ biệt. Tàu chúng tôi lập tức nổ loạt súng liên thanh vào chiếc tàu chiến gần nhất. Một quả đạn pháo lớn của địch nã thẳng vào phía buồng lái làm 6 thủy thủ hy sinh tại chỗ và tàu mất lái. Chính trị viên Nguyễn Văn Hiệu yêu cầu Thuyền trưởng Lê Hà và số anh em còn lại nhảy xuống biển. Anh phát tín hiệu để kìm chân địch và tranh thủ hủy hết tài liệu. Con tàu mất lái chạy vòng tròn. Mười sáu người chúng tôi nhảy xuống nước, cố thoát ra xa khu vực tàu 645 đang mắc kẹt giữa vòng vây, nhưng mấy anh em bị thương không thể dìu đi nhanh hơn được. Bỗng nghe tiếng Chính trị viên trên tàu hét to: “Khẩn trương lên! Hãy báo cáo với đoàn là tôi đã hoàn thành nhiệm vụ!”. Chúng tôi hiểu, Chính trị viên đã cố ý dừng thêm ít phút thời điểm điểm hỏa, bởi nếu nổ ngay sẽ nguy hiểm đến tính mạng anh em đang bơi chưa xa tàu được là bao. Rồi giây phút bi tráng cũng phải đến. Sau lưng chúng tôi bỗng bùng lên cột lửa cùng tiếng nổ vang dội, một luồng bão kéo theo ngọn sóng cực mạnh hất chúng tôi về phía rừng đước. Sau thời điểm tàu 645 nổ tung và chìm không lâu, tất cả chúng tôi đều bị địch bắt, đưa về giam giữ, tra khảo tại trại tù binh Phú Quốc. Hiệp định Paris về Việt Nam ký cuối năm 1972, đến tháng 3/1973 chúng tôi được trao trả tù binh.

Sau ngày nước nhà thống nhất, Thuyền trưởng Lê Hà trở về quê hương ở thị trấn Phước Hải, huyện Đất Đỏ (Bà Rịa – Vũng Tàu), các anh em khác cũng đều về quê, tôi thì ở Hải Phòng, cách nhà người anh cả của đơn vị không xa. Năm 1976, Nhà nước đã truy tặng liệt sĩ Nguyễn Văn Hiệu danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang. Hàng năm, đến ngày 24/4, ngày tàu 645 chìm, cũng là ngày giỗ của anh, chúng tôi đều tụ tập đến nhà anh ở phường Máy Tơ để thắp nén nhang tưởng nhớ. Trong tâm khảm chúng tôi còn in rõ nét khoảnh khắc bi tráng ngày ấy trên biển Đông, lúc anh cố đợi chúng tôi ra xa vùng nguy hiểm và lúc anh điểm hỏa cùng con tàu hòa vào lòng biển khơi.

37 năm sau ngày Chính trị viên Nguyễn Văn Hiệu hy sinh, một điều kỳ diệu khác đã xảy ra. Được sự giúp đỡ tận tình của chỉ huy Quân chủng Hải quân, của chính quyền, nhân dân địa phương, của Viện Khoa học hình sự – Bộ Công an, ngày 29/4/2009 nhân dân Hải Phòng đã trang trọng rước hài cốt của ông từ bãi cát phía chóp đuôi đảo Phú Quốc về an táng tại Nghĩa trang liệt sĩ thành phố.

NHÀ VĂN PHẠM QUANG ĐẨU (SỨC KHỎE & ĐỜI SỐNG)

Suy nghĩ ngày 27 tháng 7: Không ai bị lãng quên

Không người lính nào muốn chết, nhưng người lính nào cũng hiểu và cảm thấy sâu sắc ý nghĩa tối thượng của hai chữ “hy sinh”. Và họ đã chấp nhận.

Cuộc kháng chiến chống Pháp dừng lại sau chiến dịch Điện Biên Phủ cách đây 59 năm. Cuộc chiến tranh với Mỹ đã chính thức dừng ở cột mốc 30/4/1975, cách đây 38 năm. Gần nhất, hai cuộc chiến tranh ở biên giới Tây Nam và biên giới phía bắc, độ lùi thời gian cũng đã vào khoảng 30 năm có lẻ.

Và những liệt sĩ của chúng ta hy sinh ở hai cuộc chiến ấy, nhiều người cũng đã “tuổi chết dần hơn tuổi sống”. Bởi lúc hy sinh, họ chỉ ở độ tuổi hai mươi.

Khi các đoàn viên và thanh niên của thế hệ trẻ hôm nay thắp lên những ngọn nến tri ân liệt sĩ, các em có thể nghĩ: những người nằm dưới mộ kia đúng bằng tuổi các em hôm nay, và những liệt sĩ ấy đã có “tuổi chết” nhiều hơn hẳn tuổi các em bây giờ đang sống. Nghĩ như thế để có thể vừa kết nối tình cảm, ước mơ, rung động giữa những người có “tuổi sống” bằng nhau nhưng nay đã thuộc về hai thế giới khác nhau, vừa bày tỏ niềm kính trọng và tiếc thương những liệt sĩ đã từng sống, ước mơ, hy vọng… như chúng ta đang sống hôm nay, nhưng rồi với họ, tất cả đã phải dừng lại. Và họ chỉ còn được đếm hằng năm bằng “tuổi chết” – họ đã hy sinh bao nhiêu năm rồi?

Không người lính nào muốn chết, nhưng người lính nào cũng hiểu và cảm thấy sâu sắc ý nghĩa tối thượng của hai chữ “hy sinh”. Và họ đã chấp nhận “Nếu ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ quốc”. Tôi đã từng được sống, được chia sẻ với những người lính đang độ tuổi mười tám đôi mươi. Họ hồn nhiên và trong sáng. Nhưng họ đã sớm có ý thức. Nhiều người trong số họ, khi hy sinh, vẫn tuyệt đối trong sáng và hồn nhiên. Nhưng họ đã hy sinh với tinh thần trách nhiệm cao và nặng hơn độ tuổi của họ. Các bạn thanh niên hôm nay có thể nhìn sâu hơn vào cách sống “trong sáng, hồn nhiên, và không chỉ như thế” của các liệt sĩ chúng ta. Đó cũng là cách để xác định và khẳng định thái độ sống cho mình ở một đất nước mà những nguy cơ luôn rình rập, mà sự hy sinh chưa bao giờ thôi ám ảnh những công dân yêu nước thuộc nhiều thế hệ.

Năm ngoái, tôi đã đi viếng nhiều nghĩa trang liệt sĩ ở các tỉnh biên giới phía bắc vào dịp trước ngày 27.7. Tại nhiều nghĩa trang, tôi đã ghi lại độ tuổi của các liệt sĩ (có tên) đang nằm ở đó. Những liệt sĩ ở độ tuổi hai mươi (thậm chí chỉ 18 tuổi) vẫn chiếm nhiều nhất. Với mười nghìn liệt sĩ nằm ở nghĩa trang liệt sĩ quốc gia Trường Sơn, những người lính trẻ vẫn chiếm đa số.

Tại nghĩa trang liệt sĩ quốc gia Vị Xuyên (Hà Giang) – nơi các liệt sĩ của chúng ta hy sinh từ năm 1984 tới 1987, những liệt sĩ có “tuổi sống” 18, 19 là rất đông. Những người lính từ 30 tỉnh thành trong cả nước đã góp máu xương mình giữ từng mỏm núi, từng tấc đá ở chiến trường Thanh Thủy -Vị Xuyên – Hà Giang.

Noi gương các anh hùng, liệt sĩ, những người trẻ Việt Nam yêu nước nên sống có ý thức và tinh thần cảnh giác cao. Và cũng để sẻ chia, yêu thương, kính trọng nhiều hơn những liệt sĩ của chúng ta trên các mặt trận. “Không một ai bị lãng quên, không một cái gì bị quên lãng”, kể cả “tuổi sống” và “tuổi chết” của các liệt sĩ, kể cả các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, dù ở đất liền, ở biên giới hay trên các vùng biển đảo Việt Nam.

THANH THẢO (THANH NIÊN ONLINE)

Ngày ấy, 98 thanh niên đã bị vùi lấp như thế…

(Dân trí) – Ngày 3/1/1978, trên công trường cải tạo cống Hiệp Hòa (Hòa Sơn, Đô Lương, Nghệ An), một vụ tai nạn kinh hoàng đã xảy ra vùi lấp 98 thanh niên…

Mái kênh, nơi xẩy ra vụ lở đất khiến 98 thanh niên thiệt mạng.

Mái kênh, nơi xẩy ra vụ lở đất khiến 98 thanh niên thiệt mạng.

35 năm sau, câu chuyện tri ân những lớp thanh niên đã ngã xuống trên công trình Hiệp Hòa lại được nhắc ghi. Không phải khơi lại ký ức đau thương, mà để thấy rằng vẫn còn nhiều điều phải nghĩ suy.

Đại tang nơi công trường thủy lợi

Cho đến bây giờ, ông Phan Văn Hợi – nguyên Phó Bí thư huyện đoàn, Tổng đội trưởng Tổng đội thanh niên tình nguyện xây dựng quê hương huyện Thanh Chương (gọi tắt là Tổng đội Thanh Chương), vẫn còn nhớ như in thời khắc đau thương đó. Ông kể: “Ngày đó, đất nước vừa thống nhất, phong trào 3 sẵn sàng ở thời chiến chuyển sang phong trào xây dựng quê hương đất nước. Tỉnh có chủ trương huy động lực lượng thanh niên tình nguyện tham gia đào đắp kênh mương, hoàn chỉnh hệ thống thủy nông.

Ngày 26/3/1976, Tổng đội Thanh Chương ra đời với khoảng 2.200 đoàn viên thanh niên (còn gọi là lực lượng 202). Sau khi hoàn thành một số công trình, Tổng đội Thanh Chương được điều lên Đô Lương tham gia vào việc cải tạo lại cống Hiệp Hòa. Cống Hiệp Hòa nằm trên hệ thống nông giang dẫn nước từ Bara Đô Lương tưới tiêu cho cánh đồng các huyện Đô Lương – Diễn Châu – Yên Thành – Quỳnh Lưu. Lúc bấy giờ cống này có 3 ống dài khoảng 50m, được san phẳng có đường phía trên để qua lại.

Mái kênh, nơi xẩy ra vụ lở đất khiến 98 thanh niên thiệt mạng.
Ông Nguyễn Hữu Miệu: Chúng tôi đã từng kiến nghị phải xây dựng những công trình tưởng niệm, ghi danh nhưng vẫn không có hồi âm.

Vì xây dựng từ thời Pháp thuộc nên đường dẫn nước của nó đã bị hạn chế, buộc phải mở rộng nhằm tăng lưu lượng nước chảy. Đúng 11 giờ 55 phút ngày 3/1/1978 (tức ngày 24/11 Đinh Tỵ), khi toàn bộ công trường đang chuẩn bị đến giờ nghỉ ca, thì hàng ngàn mét khối đất đá được đổ tạm trên mái núi đã đổ ập xuống, 98 thanh niên đã bị vùi lấp hoàn toàn, 132 người khác bị thương”.

Đây có lẽ là nỗi đau lớn nhất trong lịch sử đưa nước về xuôi ở xứ Nghệ. Hàng ngàn thanh niên đã hồ hởi lên đường, với suy nghĩ phải đem bằng được nước về giúp cây lúa tốt tươi. “Chúng tôi làm việc bằng tất cả niềm hăng say, công trường lúc nào cũng rộn tiếng ca, tiếng hò khoan xốc dậy tinh thần. 80% công việc đã được hoàn thành, những hàng dài thanh niên đang chuyền những khối đất đá cuối cùng từ dưới lòng kênh lên phía trên. Có những tổ đã xong việc còn nán lại chờ tổ bạn. Bữa trưa bằng miếng bánh mì vắt được đưa đến chân công trường chỉ vừa kịp cắn dở. Thế mà…” – ông Hợi nghẹn ngào.

Ông Nguyễn Cảnh Mai – nguyên xã đội trưởng xã Hòa Sơn, nhớ lại: “Sau khi tai nạn xảy ra, cả công trường nhuốm một màu tang thương. Tiếng bạn khóc bạn, cha mẹ khóc tìm con như lạc đi. Tất cả các lực lượng được huy động đào bới, sau 3 ngày mới tìm được thi thể cuối cùng, khiến tất cả đều không thể cầm lòng”.

Trong số 98 chàng trai, cô gái tử nạn ngày đó, có đến 94 người thuộc Tổng đội Thanh Chương, nhiều nhất là người của xã Cát Văn có 37 người chết; Phong Thịnh 18 người; Thanh Liên 11 người…, tất cả đều còn rất trẻ, có người vừa nhận giấy báo trúng tuyển đại học, có người vừa mới ăn hỏi, chuẩn bị đi lấy chồng nên ra công trường chia vui, tạm biệt anh em, bạn bè lần cuối, thì gặp nạn.

Cần lắm một tượng đài

Cho đến bây giờ khi về Cát Văn, Phong Thịnh, Thanh Liên… ngày 24/11 âm lịch hàng năm vẫn được coi như một ngày giỗ chung của nhiều gia đình. Ở Cát Văn, hình ảnh những đoàn người đưa tiễn cứ nối nhau đi lặng lẽ giữa cái rét cắt da chiều cuối năm Đinh Tỵ (1977) vẫn không phai mờ trong ký ức của biết bao người.

“Trước nỗi đau thương quá lớn, ngay tết năm đó, cả làng không ai đốt pháo. Chính quyền địa phương lúc đó cũng đã chôn cất những người tử nạn vào một khuôn viên. Sau này có ý định đưa vào nghĩa trang liệt sĩ của xã, nhưng có nhiều ý kiến khác nhau nên đành thôi. Bây giờ thì các gia đình đã chuyển về nghĩa trang riêng cả” – ông Giản Tư Ngộ – Chủ tịch UBND xã Cát Văn chia sẻ.

Ông Nguyễn Cảnh Mai, nguyên xã đội trưởng xã Hòa Sơn, Đô Lương.
Ông Nguyễn Cảnh Mai, nguyên xã đội trưởng xã Hòa Sơn, Đô Lương.

Ngày đó, Cát Văn là xã bị thiệt hại nặng nề nhất đã được tỉnh đầu tư cho một trạm bơm, coi như là “công trình đáp nghĩa”. Tại các địa phương có người chết, chính quyền đã tính đến việc chôn cất những người tử nạn về một nghĩa trang, để sau này quy tập vào nghĩa trang liệt sĩ chung, nhưng về sau không thực hiện được.

Trong hành trình tìm lại những ký ức về sự kiện Hiệp Hòa, tôi có mặt tại xã Thanh Liên, tại đây hài cốt của những người tử nạn tại cống Hiệp Hòa đã được quy tập về một nghĩa trang riêng nằm bên cạnh đập Cao Điền và hằng ngày vẫn được các em học sinh Trường Tiểu học Thanh Liên chăm sóc. Chỉ vẻn vẹn hai chữ “Ghi công” thôi, nhưng dù sao đó cũng là một sự an ủi đối với vong linh của những người đã khuất.

Tôi tự vấn, thế hệ trẻ bây giờ liệu mấy ai được biết và đã biết về sự kiện cống Hiệp Hòa. Sự tri ân đối với những người đã tử nạn dừng lại ở việc trợ cấp 360.000đ/tháng cho thân sinh của họ, và thăm hỏi vào ngày lễ, tết liệu đã xứng đáng?.

Cô Đặng Thị Thanh Xuân (xóm 1, xã Cát Văn, công tác tại Trường Tiểu học Phong Thịnh) – người đã may mắn sống sót một cách kỳ diệu dù bị vùi lấp trong đống đổ nát, vào ngày 24/11 âm lịch hàng năm vẫn cùng gia đình làm “giỗ sống” cho mình. Nhưng điều khiến cô xót xa nhất vẫn là việc mình chưa thể làm gì nhiều hơn để tri ân đối với bạn bè, các anh chị em – những người đã nằm xuống.

Tại khu vực cống Hiệp Hòa, những dấu tích về vụ tai nạn vẫn còn đó, 3 ống cống dài đã bị sập một nửa vẫn hàng ngày chuyển nước về xuôi tưới tốt cho hàng ngàn hécta lúa ở các huyện Diễn – Yên – Quỳnh. 98 con người đánh đổi cho một khúc kênh được khơi dòng thực sự là một cái giá quá đắt. Thế nhưng bên công trình lịch sử này, một tấm bia ghi công, ghi danh những người đã ngã xuống vẫn chưa có. Cách đây mấy năm, một cái am nhỏ đã được các cán bộ thủy lợi dựng lên ngay mép núi, nơi xẩy ra vụ tai nạn, chừng đó thôi liệu đã đủ cho một sự tri ân?

Ông Nguyễn Hữu Miệu, nguyên Trưởng CA huyện, Thường vụ huyện ủy huyện Thanh Chương thời kỳ đó, cho rằng: “Các cháu mất đi là một thiệt thòi lớn cho gia đình, về mặt tinh thần phải coi các cháu là lực lượng TNXP và phải được hưởng các chế độ như TNXP. Ngày trước và cả sau này nữa, nhiều cán bộ lão thành cũng đã từng kiến nghị phải xây dựng những công trình tưởng niệm, ghi danh những người đã ngã xuống, thế nhưng không hiểu sao vẫn không có hồi âm”. Nói đoạn, ông nhìn về phía xa xăm, tôi chợt thấy hai mắt ông ngấn nước.

Một am nhỏ được dựng lên đối diện với vị trí xẩy ra tai nạn ngày trước.
Một am nhỏ được dựng lên đối diện với vị trí xẩy ra tai nạn ngày trước.

Cuối cùng xin dẫn lời ông Nguyễn Hoàng Thông (xóm 7, Cát Văn) có con gái là Nguyễn Thị Kim Thanh và thầy giáo Trần Văn Đồng, công tác tại trường THCS Cát Văn, có chị gái là Trần Thị Ngọc Kim, cả hai người đều đã nhận được giấy báo trúng tuyển Đại học, khi ra công trường chia vui với bạn bè lần cuối thì gặp nạn tại đây: “Chúng tôi cũng không mong muốn gì về chế độ, thế nhưng những hi sinh cống hiến của người thân chưa được ghi nhận, hàng năm đến ngày lễ tết lên Hiệp Hòa, muốn thắp một nén hương cũng không biết cắm vào đâu, tủi thân lắm chú ạ”.

“Sự tri ân đối với các bậc tiền bối đã ngã xuống trên công trình xây dựng cống Hiệp Hòa là điều cần thiết, một cách để giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ. Tỉnh đoàn cũng đã nhận được một số kiến nghị, hiện nay đang giao cho huyện đoàn Thanh Chương hoàn thiện các hồ sơ thủ tục để trình các cấp xem xét xây dựng một số công trình tưởng niệm” – anh Nguyễn Đình Hùng, Bí thư Tỉnh đoàn Nghệ An.

Một am nhỏ được dựng lên đối diện với vị trí xẩy ra tai nạn ngày trước.
Tại Thanh Liên, mộ của những người tử nạn đã được quy tập về một nghĩa trang riêng, dù vẻn vẹn hai chữ ghi công nhưng dù sao đó cũng là một niềm an ủi.

Đông Nguyễn – Lany Nguyễn