Tre Việt Nam

Tre xanh
Xanh tự bao giờ?
Chuyện ngày xưa… đã có bờ tre xanh
Thân gầy guộc, lá mong manh
Mà sao nên lũy nên thành tre ơi?
Ở đâu tre cũng xanh tươi
Cho dù đất sỏi đất vôi bạc màu
Có gì đâu, có gì đâu
Mỡ màu ít chắt dồn lâu hoá nhiều
Rễ siêng không ngại đất nghèo
Tre bao nhiêu rễ bấy nhiêu cần cù
Vươn mình trong gió tre đu
Cây kham khổ vẫn hát ru lá cành
Yêu nhiều nắng nỏ trời xanh
Tre xanh không đứng khuất mình bóng râm
Bão bùng thân bọc lấy thân
Tay ôm tay níu tre gần nhau thêm
Thương nhau tre không ở riêng
Lũy thành từ đó mà nên hỡi người
Chẳng may thân gãy cành rơi
Vẫn nguyên cái gốc truyền đời cho măng
Nòi tre đâu chịu mọc cong
Chưa lên đã nhọn như chông lạ thường
Lưng trần phơi nắng phơi sương
Có manh áo cộc tre nhường cho conMăng non là búp măng non
Đã mang dáng thẳng thân tròn của tre
Năm qua đi, tháng qua đi
Tre già măng mọc có gì lạ đâu

Mai sau,
Mai sau,
Mai sau…
Đất xanh tre mãi xanh màu tre xanh

1970-1972

Nguyễn Duy

BÊN KIA SÔNG ĐUỐNG

BÊN KIA SÔNG ĐUỐNG

Hoàng Cầm

Em ơi! Buồn làm chi
Anh đưa em về sông Đuống
Ngày xưa cát trắng phẳng lì
Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp loáng
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ

Xanh xanh bãi mía bờ dâu
Ngô khoai biêng biếc
Đứng bên này sông sao nhớ tiếc
Sao xót xa như rụng bàn tay

Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp
Quê hương ta từ ngày khủng khiếp
Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn

Ruộng ta khô
Nhà ta cháy
Chó ngộ một đàn
Lưỡi dài lê sắc máu

Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang
Mẹ con đàn lợn âm dương
Chia lìa đôi ngả
Đám cưới chuột tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu ?

Ai về bên kia sông Đuống
Cho ta gửi tấm the đen
Mấy trăm năm thấp thoáng mộng bình yên
Những hội hè đình đám
Trên núi Thiên Thai
Trong chùa Bút Tháp
Giữa huyện Lang Tài
Gửi về may áo cho ai
Chuông chùa văng vẳng nay người ở đâu
Những nàng môi cắn chỉ quết trầu
Những cụ già phơ phơ tóc trắng
Những em sột soạt quần nâu
Bây giờ đi đâu? Về đâu?

(Nhà thơ Hoàng Cầm bên dòng sông Đuống thơ mộng)

Ai về bên kia sông Đuống
Có nhớ từng khuôn mặt búp sen
Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu tỏa nắng
Chợ Hồ, chợ Sủi người đua chen
Bãi Trầm Chỉ người giăng tơ nghẽn lối
Những nàng dệt sợi
Đi bán lụa mầu
Những người thợ nhuộm
Đồng Tỉnh, Huê Cầu
Bây giờ đi đâu? Về đâu?

Bên kia sông Đuống
Mẹ già nua còm cõi gánh hàng rong
Dăm miếng cau khô
Mấy lọ phẩm hồng
Vài thếp giấy dầm hoen sương sớm
Chợt lũ quỷ mắt xanh trừng trợn
Khua giầy đinh đạp gẫy quán gầy teo
Xì xồ cướp bóc
Tan phiên chợ nghèo
Lá đa lác đác trước lều
Vài ba vết máu loang chiều mùa đông

Chưa bán được một đồng
Mẹ già lại quẩy gánh hàng rong
Bước cao thấp trên bờ tre hun hút
Có con cò trắng bay vùn vụt
Lướt ngang dòng sông Đuống về đâu?
Mẹ ta lòng đói dạ sầu
Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ

Bên kia sông Đuống
Ta có đàn con thơ
Ngày tranh nhau một bát cháo ngô
Đêm líu díu chui gầm giường tránh đạn
Lấy mẹt quây tròn
Tưởng làm tổ ấm
Trong giấc thơ ngây tiếng súng dồn tựa sấm
Ú ớ cơn mê
Thon thót giật mình
Bóng giặc dày vò những nét môi xinh

Đã có đất này chép tội
Chúng ta không biết nguôi hờn

Đêm buông xuống dòng sông Đuống
Con là ai ? -Con ở đâu về ?

Hé một cánh liếp
Con vào đây bốn phía tường che
Lửa đèn leo lét soi tình mẹ
Khuôn mặt bừng lên như dựng giăng
Ngậm ngùi tóc trắng đang thầm kể
Những chuyện muôn đời không nói năng
Đêm đi sâu quá lòng sông Đuống
Bộ đội bên sông đã trở về
Con bắt đầu xuất kích
Trại giặc bắt đầu run trong sương
Dao loé giữa chợ
Gậy lùa cuối thôn
Lúa chín vàng hoe giặc mất hồn
Ăn không ngon
Ngủ không yên
Đứng không vững
Chúng mày phát điên
Quay cuồng như xéo trên đống lửa
Mà cánh đồng ta còn chan chứa
Bao nhiêu nắng đẹp mùa xuân
Gió đưa tiếng hát về gần
Thợ cấy đánh giặc dân quân cày bừa
Tiếng bà ru cháu xế trưa
Chang chang nắng hạ võng đưa rầu rầu
“À ơi… cha con chết trận từ lâu
Con càng khôn lớn càng sâu mối thù”
Tiếng em cắt cỏ hôm xưa
Hiu hiu gió rét mịt mù mưa bay
“Thân ta hoen ố vì mày
Hờn ta cùng với đất này dài lâu…”

Em ơi! Đừng hát nữa! Lòng anh đau
Mẹ ơi! Đừng khóc nữa! Dạ con sầu
Cánh đồng im phăng phắc
Để con đi giết giặc
Lấy máu nó rửa thù này
Lấy súng nó cầm chắc tay
Mỗi đêm một lần mở hội
Trong lòng con chim múa hoa cười
Vì nắng sắp lên rồi
Chân trời đã tỏ
Sông Đuống cuồn cuộn trôi
Để nó cuốn phăng ra bể
Bao nhiêu đồn giặc tơi bời
Bao nhiêu nước mắt
Bao nhiêu mồ hôi
Bao nhiêu bóng tối
Bao nhiêu nỗi đời

Bao giờ về bên kia sông Đuống
Anh lại tìm em
Em mặc yếm thắm
Em thắt lụa hồng
Em đi trảy hội non sông
Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh.
(Việt Bắc, tháng 4-1948)

Những điều cần biết về các lô nhà giàn DK1 trên 6 bãi ngầm của Việt Nam

Trải qua hơn 20 năm xây dựng lực lượng, huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ các trạm dịch vụ kinh tế – khoa học kỹ thuật DKI, cùng với các lực lượng tàu của Lữ đoàn 171, cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn DK1 luôn đoàn kết, vững vàng vượt qua mọi khó khăn gian khổ hoàn thành tốt nhiệm vụ chốt giữ, bảo vệ chủ quyền vùng biển, thềm lục địa Tổ quốc; bảo vệ an toàn các nhà giàn.

1. Tư Chính

Bãi ngầm Tư Chính nằm ở trong giới hạn khoảng từ vĩ độ 07029’03’’N – 07033’20’’N và kinh độ 109037’730’’E – 109054’58’’E, cách bãi Quế Đường 55 hải lý về phía Tây Nam. Điểm nhô cao nhất của bãi Tư Chính sâu cách mặt nước khoảng 16m, vị trí cách Vũng Tàu khoảng 229 hải lý về phía Đông Nam. Bãi ngầm Tư Chính có vị trí rất quan trọng trong xây dựng, phát triển kinh tế biển và công tác quản lý chủ quyền vùng biển trên khu vực DKI; phạm vi bãi ngầm trong khoảng độ sâu 16m đến độ sâu 200m có độ dài khoảng 57km, chiều rộng nơi rộng nhất khoảng 13km, hướng phát triển chạy dài theo hướng Đông Bắc – Tây Nam. Tư Chính là bãi ngầm lớn, ở cạnh đường hàng hải quốc tế, nên có vị trí rất quan trọng đối với việc tổ chức lực lượng thực hiện các nhiệm vụ quốc phòng, an ninh trên biển và quản lý, bảo vệ chủ quyền vùng biển của Tổ quốc.

Thực hiện chủ trương xây dựng Cụm kinh tế – khoa học – dịch vụ (DK1), từ ngày 22 đến 27 tháng 6 năm 1989, Tổng cục Dầu khí phối hợp với Bộ Tư lệnh Công binh tiến hành lắp dựng xong nhà giàn đầu tiên tại bãi ngầm Tư Chính (tên địa danh hành chính là Trạm kinh tế – khoa học – dịch vụ Tư Chính, thuộc tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu). Nhà giàn Tư Chính A (DKI/1) thiết kế theo kiểu chôn cột giàn khoan, đặt ở vùng nước sâu 23m, chiều cao công trình là 39,5m, cách mặt nước biển lúc triều cường là 11m; tháng 11 năm 1990, Nhà nước tiếp tục dựng lắp tại đây Trạm kinh tế – khoa học – dịch vụ Tư Chính B (nhà giàn DKI/5). Ngay sau khi xây dựng xong ngày 2 tháng 11 năm 1990, một khung cán bộ, chiến sĩ nhà giàn DKI/5 đã tiếp nhận và tiến hành các nhiệm vụ chốt giữ, bảo vệ. Ngày 5 tháng 8 năm 1994, khung đơn vị nhà giàn DKI/11 tiếp nhận Trạm kinh tế – khoa học – dịch vụ Tư Chính C (nhà giàn DKI/11). Ngày 8 tháng 8 năm 1994, khung đơn vị nhà giàn DKI/12 tiếp nhận Trạm kinh tế – khoa học – dịch vụ Tư Chính Đ (nhà giàn DK1/12). Ngày 20 tháng 4 năm 1995, khung đơn vị nhà giàn DKI/14 tiếp nhận Trạm kinh tế – khoa học – dịch vụ Tư Chính E (nhà giàn DK1/14).

Như vậy liên tục từ năm 1989 đến 1995, Nhà nước ta xây dựng 5 trạm dịch vụ trên bãi ngầm Tư Chính. Kết cấu của nhà vững chắc, có thể chống chọi, chịu đựng sóng trên cấp 12. Đến năm 1999, sau gần 10 năm dựng lắp và hoạt động trong môi trường tự nhiên phức tạp, nhà Trạm dịch vụ Tư Chính B (DKI/5) xuống cấp không đảm bảo an toàn, toàn bộ khung nhà giàn DKI/5 rút vào bờ và tháng 12 năm 1999 Trạm dịch vụ Tư Chính B bị sóng đánh đổ xuống biển. Sau nhà Trạm DKI/5 là Trạm dịch vụ Tư Chính E (DKI/14) cũng bị sóng đánh làm nhà bị nghiêng. Tháng 12 năm 1999, bộ đội khung nhà giàn (DKI/14) rút vào bờ và các đơn vị kỹ thuật của Nhà nước khẩn trương tu sửa, gia cố nhà Trạm Tư Chính E. Sau khi hoàn thành gia cố, năm 2001 bộ đội khung nhà giàn (DKI/14) tiếp tục trở lại chốt giữ, bảo vệ Trạm dịch vụ Tư Chính E.

Đặc điểm nổi bật của khu vực Tư Chính là nằm cạnh đường hàng hải quốc tế là khu vực biển hoạt động nhạy cảm và hết sức phức tạp, “nước ngoài” thường xuyên sử dụng tàu nghiên cứu, tàu cải dạng, tàu chiến vào thăm dò địa chấn, trinh sát, quấy rối, vi phạm chủ quyền của ta. Ngoài ra, có nhiều tàu cá Trung Quốc, Hồng Công, Philippines, xuống đánh bắt trái phép hải sản khu vực này. Hoạt động của tàu nước ngoài tập trung nhiều vào các tháng 3, 4, 5 và tháng 9 tháng 10, thời kỳ sóng yên, biển lặng. Bởi vậy, công tác sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu của cán bộ, chiến sĩ các nhà trạm Tư Chính luôn căng thẳng, đặt ra yêu cầu rất cao.

2. Phúc Nguyên

Bãi Phúc Nguyên nằm ở trong khoảng vĩ độ từ 07048’10’’N – 07055’00’’N và kinh độ 109055’55’’E – 100000’00’’E; cách Vũng Tàu khoảng 225 hải lý về phía Đông Nam. Tiếp giáp với bãi ngầm Phúc Nguyên về phía Tây Nam là bãi ngầm Tư Chính; phía Đông là bãi ngầm Quế Đường; phía Đông Bắc là bãi ngầm Phúc Tần và phía Đông Đông Bắc là bãi ngầm Huyền Trân.

Bãi ngầm Phúc Nguyên, theo truyền thuyết kể lại là Nguyễn Phúc Nguyên, con thứ sáu của đức Triệu Tổ Nguyễn Hoàng và Hoàng hậu họ Nguyễn, ngài sinh ngày 28 tháng 7 năm Quý Hợi (16-8-1563), khi Hoàng hậu có thai chiêm bao thấy thần nhân cho tờ giấy viết đầy cả chữ “Phúc”, nhiều người đã đề nghị bà lấy chữ “Phúc” đặt tên con thì bà cho rằng nếu đặt tên con thì chỉ một người được hưởng phúc, bà bèn đặt tên con là Nguyễn Phúc Nguyên; bãi Phúc Nguyên là một bãi thoải không đều, nằm chìm dưới mực nước biển, điểm nhô cao nhất nằm cách mặt nước khoảng 18m, điểm nhô thấp nhất nằm sâu cách mặt nước tới 200m. Từ độ sâu trên 200m trở ra, độ sâu của đáy biển biến đổi nhanh và có độ dốc rất lớn. Phạm vi nằm ở độ sâu khoảng từ 16-200m, bãi ngầm Phúc Nguyên có chiều dài khoảng 30km, chiều rộng nơi rộng nhất khoảng 21km, phát triển chạy dài theo hướng Đông Bắc – Tây Nam, đặt ở vị trí độ sâu mực nước trung bình 21m. Đầu tháng 12 năm 1998, cơn bão số 8 một cơn bão mạnh tràn qua vùng biển DKI. Nằm trong khu vực trọng điểm của bão, trong tình thế hiểm nghèo, dưới sự chỉ huy của đồng chí Trạm trưởng, Đại úy Vũ Quang Chương, cùng với 8 cán bộ QNCN của nhà giàn DKI/6 Phúc Nguyên đã kiên trì bám trụ, liên tục giữ vững thông tin liên lạc và báo cáo chính xác mọi diễn biến về Sở chỉ huy; bình tĩnh, dũng cảm chống chọi với bão; dự kiến những tình huống xấu nhất có thể xảy ra và tìm mọi biện pháp nhằm giảm thấp nhất thiệt hại về người và trang bị. Giữa biển khơi mênh mông, đêm tối mịt mù, với sóng, gió, vừa mệt, vừa đói và rét, 9 cán bộ, nhân viên nhà giàn – một tập thể vẫn kiên cường, với tinh thần còn người, còn nhà trạm, kiên quyết bám trụ bảo vệ nhà giàn đến cùng. Trong một thời gian dài, liên tiếp gồng mình chống chọi với những trận cuồng phong; những cơn sóng lớn, đỉnh sóng cao 14-15m đánh mạnh trùm kín qua cả sàn công tác của nhà giàn, cùng với sức gió giật mạnh làm cho nhà giàn bị rung chấn dữ dội và nghiêng, lắc mạnh. Vào lúc 3 giờ sáng ngày 14 tháng 12 năm 1998, thời điểm mà sức mạnh và sự tàn phá của bão số 8 lên đến đỉnh điểm, cũng là lúc nhà giàn DKI/6 Phúc Nguyên bị đổ, cả 9 đồng chí của nhà giàn bị hất tung xuống biển. Ngay sau đó, lực lượng tàu trực cấp cứu của Hải quân đã khẩn trương, tích cực tổ chức tìm kiếm, cấp cứu những cán bộ, chiến sĩ bị nạn trong cơn bão; đến 3 ngày sau tàu HQ 606 đã phát hiện, cấp cứu được 6 đồng chí, còn lại 3 đồng chí là: Đại úy, trạm trưởng Vũ Quang Chương; Chuẩn úy chuyên nghiệp Rađa Lê Đức Hồng và Chuẩn úy chuyên nghiệp cơ điện Nguyễn Văn An mãi mãi ở lại với biển khơi, thi thể các anh đã hóa thân vào với sóng, gió, nước của đại dương mênh mông, nhưng tinh thần quả cảm, tấm gương anh dũng hy sinh vì sự nghiệp bảo vệ nhà giàn, bảo vệ chủ quyền, vùng biển, thềm lục địa của Tổ quốc mãi mãi in đậm trong nỗi tiếc thương, sự cảm phục và cả niềm kiêu hãnh của cán bộ, chiến sĩ Hải quân. Sau khi nhà giàn DKI/6 bị đổ, tháng 4 năm 1995, Trạm kinh tế – khoa học – dịch vụ Phúc Nguyên 2 (DKI/15) được xây dựng tại vĩ độ 07048’10’’N và kinh độ 109055’55’’E tại bãi cạn Phúc Nguyên. Công trình có chiều cao 47,45m, tổng diiện tích 310m2, tổng trọng lượng công trình 493 tấn; từ đây trên bãi cạn Phúc Nguyên, nhà giàn DKI/15 tiếp tục sứ mệnh lịch sử làm nhiệm vụ chốt giữ, bảo vệ nhà trạm và vùng biển, vùng trời được phân công.

Để cải thiện đời sống, nâng cao chất lượng bữa ăn của cán bộ nhân viên nhà giàn, ngoài chế độ, tiêu chuẩn được cung cấp theo đặc thù, nhà giàn thường xuyên chú trọng đẩy mạnh tăng gia trồng rau xanh và đánh bắt hải sản. Nhà giàn, được trên cấp các khay trồng rau, đất màu và con giống theo định lượng đầu người, theo tàu từ đất liền chở ra. Trong điều kiện không gian chật hẹp, rau xanh được trồng trong các khay gỗ, khay nhựa và đặt ở những nơi không gian tận dụng như hành lang, cầu thang, các ô cửa… của trạm; hàng ngày, nước thải trong sinh hoạt được tận dụng triệt để dùng cho tưới rau. Ở đây, rau xanh được trồng đủ các loại, song chủ yếu là rau cải, rau dền, bầu, bí… mỗi năm thu hoạch được từ 300 đến gần 600kg rau xanh các loại. Do đó, nhà giàn Phúc Nguyên không những cơ bản khắc phục được tình trạng thiếu rau xanh trong bữa ăn hàng ngày, mà còn giành một phần hỗ trợ cho cán bộ, chiến sĩ của các đơn vị tàu làm nhiệm vụ trực trong khu vực.

3. Phúc Tần

Bãi ngầm Phúc Tần nằm ở trong khoảng vĩ độ từ 08004’24’’N – 08009’44’’N và kinh độ 110028’10’’E – 110035’47’’E, cách bãi ngầm Quế Đường 22 hải lý về phía Bắc. Bãi Phúc Tần, Huyền Trân hợp với nhau thành một nhóm, điểm nhô cao nhất của Phúc Tần dưới mặt nước khoảng 5,5m, cách Vũng Tàu khoảng 243 hải lý về phía Đông Nam. Phạm vi bãi ngầm trong khoảng độ sâu 5,5m đến độ sâu 200m, có chiều dài khoảng 28km, chiều rộng nhất khoảng 26km, hướng phát triển cánh cung, đầu nhô cánh cung theo hướng Đông Bắc – Tây Nam.

Tương truyền kể lại rằng, Thái Tông Hiếu Triết Hoàng Đế húy là Nguyễn Phúc Tần, con thứ hai của đức Thần Tông Nguyễn Phúc Lan và Hoàng hậu họ Đoàn (không rõ tên). Ngài sinh ngày 19 tháng 6 năm Canh Thân (18-7-1620). Lúc làm Thế tử, ngài được phong là Thái phó Dũng Lễ Hầu. Ngài là một võ tướng có tài. Năm Giáp Thân (1644) ngài đốc suất các chiến thuyền vây đánh ba chiếc tàu của người Hà Lan tại cửa Eo làm thuyền trưởng phải tự tử, hai chiếc bỏ chạy, một chiếc bị va vào đá ngầm chìm, đức Thần Tông mừng và khen rằng: “Trước kia Tiên quân ta đã từng đánh phá giặc biển, nay con ta cũng lại như thế, ta không lo gì nữa”.

Thực hiện chủ trương xây dựng Cụm kinh tế – khoa học – dịch vụ (DK1), ngày 10 đến 15 tháng 6 năm 1989, Bộ Giao thông – Vận tải phối hợp với Bộ Tư lệnh Công binh tiến hành dựng lắp xong nhà giàn đầu tiên tại bãi ngầm Phúc Tần (tên địa danh hành chính là Trạm kinh tế khoa học – dịch vụ Phúc Tần, thuộc tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu). Nhà giàn Phúc Tần (DKI/3) có diện tích sử dụng là 144m2, cách mặt nước biển lúc triều cường là 10,5m.

Đầu tháng 12 năm 1990, cơn bão số 10 tràn qua khu vực DKI với gió mạnh cấp 10, cấp 11. Đêm ngày 4 tháng 12 năm 1990, nhà giàn Phúc Tần bị sóng dâng cao 14-15m đánh nghiêng 150, phá vỡ các sàn ghi tầng dưới và đến hơn 2 giờ ngày 5 tháng 12, toàn bộ khối nhà bị đổ xuống biển. Lúc này Trạm trưởng nhà giàn là Trung úy Bùi Xuân Bổng; Trạm phó Chính trị là Trung úy Nguyễn Hữu Quảng đã bình tĩnh chỉ huy bộ đội sử dụng các phao, xuồng cứu sinh rời nhà và thường xuyên điện báo về Sở chỉ huy, đến phút cuối cùng mới rời vị trí. Sau khi nhận được điện báo nhà giàn Phúc Tần bị đổ, Quân chủng Hải quân đã lệnh cho các tàu trực trên khu vực HQ711, HQ713, HQ965 khẩn trương đến cấp cứu bộ đội. Cuộc tìm kiếm từ 6 giờ 30 phút đến 19 giờ ngày 5 tháng 12 tàu HQ711 đã phát hiện cấp cứu được 5 cán bộ, chiến sĩ trong đó có đồng chí Trạm trưởng. Các ngày tiếp theo Quân chủng tiếp tục đưa tàu HQ07, HQ11, HQ682 đi tìm kiếm 3 đồng chí còn lại. Do sóng to, gió lớn việc cứu nạn rất khó khăn, các tàu đã không tìm thấy các đồng đội của mình bị sóng đánh trôi dạt. 3 cán bộ, chiến sĩ của nhà giàn Phúc Tần, Trung úy Nguyễn Hữu Quảng, Trạm phó Chính trị người con của thủ đô Hà Nội; Trung úy chuyên nghiệp Trần Văn Là, quân y sĩ và Hạ sĩ Hồ Văn Hiền, nhân viên cơ điện, mãi mãi ở lại với biển cả, các anh đã anh dũng hy sinh vì sự nghiệp bảo vệ thềm lục địa phía Đông Nam của Tổ quốc.

Tháng 8 năm 1993, Nhà nước tiếp tục xây dựng Trạm kinh tế – khoa học – dịch vụ Phúc Tần A (DKI/2) cách trạm cũ 3,5 hải lý; tháng 8 năm 1996 dựng lắp xong Trạm kinh tế – khoa học – dịch vụ Phúc Tần B (DKI/16) và DKI/17); tháng 4 năm 1997 dựng lắp xong trạm Phúc Tần Đ (DKI/18). Như vậy liên tục từ năm 1993 đến năm 1997, Nhà nước ta xây dựng 4 trạm trên bãi ngầm Phúc Tần, trị giá gần 60 tỉ đồng. Đây là các nhà trạm, được thiết kế, chế tạo nội thất đáp ứng ngày càng hiệu quả hơn cho các hoạt động của trạm cùng với việc tăng cường các trang bị kỹ thuật đảm bảo cho các nhu cầu sinh hoạt, công tác của bộ đội cũng như các hoạt động bảo đảm hàng hải. Kế cấu của nhà vững chắc, có thể chống chọi, chịu đựng sóng trên cấp 12.

Đặc điểm nổi bật của khu vực biển Phúc Tần nói riêng là khu vực biển hoạt động nhạy cảm và hết sức phức tạp, nước ngoài thường xuyên sử dụng tàu nghiên cứu, tàu cải dạng, tàu chiến, tàu cá vào thăm dò địa chấn, trinh sát, quấy rối, vi phạm chủ quyền của ta. Ngoài ra, có nhiều tàu cá Hồng Công, Philippines, xuống đánh bắt trái phép hải sản khu vực này. Hoạt động của tàu nước ngoài tập trung nhiều vào các tháng 3, 4, 5 và tháng 9 tháng 10, thời kỳ sóng yên, biển lặng. Bởi vậy công tác sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu của cán bộ, chiến sĩ các nhà trạm Phúc Tần luôn căng thẳng, đặt ra yêu cầu rất cao.

4. Huyền Trân

Bãi Huyền Trân hợp với Phúc Tần thành một nhóm. Bãi Huyền Trân nằm về phía Nam Phúc Tần nằm ở vĩ độ 08001’30’’N và kinh độ 110037’10’’E, điểm nhô cao nhất của Huyền Trân dưới mặt nước khoảng 5,5m, cách Vũng Tàu khoảng 253,5 hải lý về phía Đông Nam. Phạm vi bãi ngầm trong khoảng độ sâu 5,5-200m, có chiều dài khoảng 28km, chiều rộng nhất khoảng 26km, hướng phát triển cánh cung, đầu nhô cánh cung theo hướng Đông Bắc – Tây Nam.

Truyền thuyết kể lại, Huyền Trân, bà sinh vào năm 1287, một công chúa đời nhà Trần, là con gái của vua Trần Nhân Tông và là em gái vua Trần Anh Tông. Năm 1306, Huyền Trân được gả cho vua Chiêm Thành (Champa) là Chế Mân (tiếng Phạn: Jaya Sinhavarman III) để đổi lấy hai châu Ô, Lý (từ đèo Hải Vân, Thừa Thiên đến phía Bắc Quảng Trị ngày nay). Vào năm 1293, vua Trần Nhân Tông thoái vị, Hoàng thái tử Trần Thuyên lên nối ngôi (tức là Hoàng đế Trần Anh Tông). Vua Trần Nhân Tông trở thành Thái thượng hoàng, lên tu ở núi Yên Tử. Năm 1301, Thái thượng hoàng Trần Nhân Tông nhận lời mời, du ngoạn vào Chiêm Thành, được vua Chiêm Thành là Chế Mân tiếp đãi nồng hậu, có ở lại trong cung điện Chiêm Thành gần 9 tháng. Khi ra về, Trần Nhân Tông có hứa gả con gái là Huyền Trân cho Chế Mân, mặc dù khi đó Chế Mân đã có chính thất là Hoàng hậu Tapasi, người Java (Nam Dương ngày nay). Sau đó nhiều lần Chế Mân sai sứ sang hỏi về việc hôn lễ, nhưng triều thần nhà Trần phản đối, chỉ có Văn Túc Vương Đạo Tái và Nhập nội hành khiển Trần Khắc Chung chủ trương tán thành.

Thực hiện chủ trương xây dựng Cụm kinh tế – khoa học – dịch vụ (DK1), tháng 6 năm 1989, Nhà nước đã tiến hành dựng lắp 3 trạm tại bãi ngầm Tư Chính, Phúc Tần, Ba Kè. Đây là những vị trí quan trọng trên khu vực DKI. Năm 1990, ta dựng lắp thêm 1 trạm ở bãi ngầm Tư Chính và 1 trạm mới tại bãi ngầm Phúc Nguyên, đồng thời khẩn trương sửa chữa gia cố 3 trạm xây dựng năm 1989. Cuối năm 1991, Nhà nước tiếp tục triển khai dựng lắp 2 trạm dịch vụ mới tại 2 bãi ngầm Quế Đường, Huyền Trân để đẩy nhanh việc tổ chức khai thác hải sản và quản lý nguồn lợi biển trên khu vực DKI cũng như triển khai việc nghiên cứu theo dõi và thông báo khí tượng, hải văn cho quốc tế cùng với tăng cường các trang bị kỹ thuật bảo đảm hàng hải. Trạm kinh tế – khoa học – dịch vụ Huyền Trân (DKI/7) do Bộ Giao thông – Vận tải phối hợp với Bộ Tư lệnh Công binh dựng lắp và hoàn thành vào ngày 11 tháng 11 năm 1991. Nhà trạm Huyền Trân đặt ở vị trí có độ sâu từ mặt san hô lên đến mặt nước biển khoảng 12m; độ cao từ mặt nước biển lên tới sân thượng khoảng 15m. Đây là nhà trạm được thiết kế, chế tạo nội thất đáp ứng ngày càng hiệu quả hơn cho các hoạt động của trạm và các nhu cầu sinh hoạt, công tác của bộ đội cùng với việc tăng cường các trang bị kỹ thuật đảm bảo. Kết cấu của nhà có độ bền vững cao có thể chống chọi, chịu đựng sóng trên cấp 12. Ngay sau khi hoàn thành ngày 11 tháng 11 năm 1991, Khung nhà giàn Huyền Trân (DKI/7) đã trực tiếp ra tiếp nhận nhà trạm và nhanh chóng tiến hành các nhiệm vụ chốt giữ bảo vệ trạm, bảo vệ chủ quyền vùng biển khu vực bãi ngầm Huyền Trân.

5. Quế Đường

Bãi ngầm Quế Đường là một bãi ngầm thuộc thềm lục địa phía Nam của Tổ quốc; nằm ở trong khoảng vĩ độ từ 07047’08’’N – 07048’37’’N và kinh độ 110027’11’’E – 110029’29’’E. Từ bãi Quế Đường đến Vũng Tàu khoảng 254 hải lý, đến đảo Tri Tôn quần đảo Hoàng Sa khoảng 481 hải lý, đến đảo Trường Sa khoảng 99 hải lý, đến bờ biển Malaysia khoảng 286 hải lý, đến đảo Natunapắc của Indonesia khoảng 233 hải lý, đến khu vực ranh giới ven biển Thái Lan và Malaysia khoảng 509 hải lý, đến bãi Phúc Nguyên khoảng 32 hải lý, đến Tư Chính khoảng 55 hải lý, đến bãi Phúc Tần khoảng 22 hải lý, đến Ba Kè khoảng 74 hải lý. Điểm nhô cao nhất của Quế Đường cách mặt nước khoảng 11m. Phạm vi bãi ngầm trong khoảng độ sâu 11m đến độ sâu 200m, có chiều dài khoảng 13km, chiều rộng nơi rộng nhất khoảng 7,5km, hướng phát triển chạy dài theo hướng Đông Bắc – Tây Nam.

Quế Đường là lấy theo tên phong truyền của Lê Quý Đôn, Lê Quý Đôn là con trai cả của ông Lê Trọng Thứ. Thân sinh của Lê Quý Đôn đậu tiến sĩ năm Bảo Thái thứ 2 (1721) và làm quan đến chức Hình Bộ Thượng Thư, được phong tước hầu. Thuở nhỏ, ông có tên là Danh Phương, đến năm 1743 sau khi đỗ giải nguyên trường Sơn Nam thì đổi thành Quý Đôn; tự Doãn Hậu, hiệu Quế Đường. Còn theo tên khoa học “Quế đường” là một loại giống mía mới.

Khí tượng, thủy văn ở bãi Quế Đường cũng rất phức tạp. Về mùa mưa từ cuối tháng 6 năm trước đến đầu tháng 2 năm sau hầu như ngày nào cũng có dông. Gió Tây Nam là chủ yếu, mạnh cấp 4 đến cấp 6 có lúc lên tới cấp 7, đặc biệt là vào những tháng 11, 12 và đầu tháng 1 năm sau, bãi ngầm chịu sóng cồn do đó làm tăng từ 1 đến 2 cấp sóng. Trong năm có 2 mùa sóng rõ rệt, phù hợp với hai mùa gió, thể hiện sự tương phản của hai hướng sóng đối lập nhau. Mùa đông, hướng sóng chiếm ưu thế là hướng Đông Bắc, sau đó lên Bắc hoặc Đông. Độ cao sóng trung bình từ khoảng 2m ÷ 2,5m, cực đại có thể lên đến 8m. Mùa hè, hướng sóng ưu thế là Tây Nam, sau đó đến Tây hoặc Nam, độ cao trung bình của sóng khoảng 1,5-1,7m, cực đại có thể đến 6m (không kể sóng trong bão). Trong các tháng chuyển tiếp (tháng 4 hoặc tháng 10), hướng sóng thay đổi theo hướng gió, không ổn định. Độ cao sóng trung bình tương đối nhỏ, khoảng 0,5m. Chế độ thủy triều ở bãi đá ngầm Quế Đường tuân theo chế độ nhật triều không đều, hàng ngày có 1 lần nước lên xuống; vào kỳ nước kém, trong ngày thường có 2 lần triều lên xuống. Vào kỳ nước cường, biên độ thủy triều lớn nhất trung bình khoảng 1,2-2m. Dòng chảy ở bãi đá ngầm Quế Đường là dòng chảy xoáy, đầu hè dòng chảy có hướng thịnh hành là Đông Bắc. Cuối mùa hè dòng chảy thịnh hành hướng Đông, vận tốc trung bình 0,2-0,4 hải lý/giờ. Thời kỳ chuyển mùa đông sang mùa hè dòng chảy thịnh hành là hướng Bắc, vận tốc trung bình 0,3-0,4 hải lý/giờ.

Nhà giàn Quế Đường là một trong 6 trạm nghiên cứu thuộc cụm kinh tế – khoa học và dịch vụ trên thềm lục địa phía Nam. Theo sự phân chia địa quân sự thì Quế Đường là lô 5 trong 6 lô của khu vực dầu khí I (gọi tắt là DKI) và nằm ở trung tâm của khu vực DKI.

6. Ba Kè

Bãi ngầm Ba Kè nằm ở trong khoảng vĩ độ từ 07032’34’’N – 07053’37’’N và kinh độ 111032’34’’E – 111045’42’’E, gồm các Bãi Vũng Mây, Bãi Ba Kè, Bãi Đất, Bãi Đinh, các vị trí bãi ngầm này nằm trên cùng một khu vực bãi ngầm có độ sâu dưới mặt nước trong khoảng từ 3,2-100m; bãi ngầm nằm theo hướng Bắc Đông Bắc – Tây Tây Nam, vị trí cách bãi Quế Đường 74 hải lý về phía Đông. Chiều dài bãi ngầm khoảng chừng 50km; chiều rộng nơi rộng nhất khoảng 24km. Điểm bãi ngầm Ba Kè có độ sâu 3,2 dưới mặt nước, vị trí cách Vũng Tàu khoảng 579km về phía Đông Nam.

Ba Kè (địa danh căn cứ cách mạng). Tên địa danh Ba Kè thuộc thị trấn Cái Ngang, huyện Tam Bình, Vĩnh Long “Từ cuối năm 1946 đến cuối tháng 9-1949, các lực lượng vũ trang đánh địch hàng chục trận trên các tuyến lộ giao thông và đồn bót, giải phóng hoàn toàn huyện Tam Bình, thị trấn Cái Ngang, Ba Kè,… Đầu năm 1949, lần đầu tiên lực lượng vũ trang Vĩnh Long dùng súng bộ binh bắn tan xác một chiếc máy bay của địch tại quận lỵ Tam Bình”. Vai trò của Cái Ngang hiện rõ. Cái Ngang đã trở thành một điểm chiến lược quan trọng, mặc dù có vẻ trống trải. Các đơn vị lẻ tẻ của địch chưa dám dòm ngó đến từ nhiều năm liền.

Đặc điểm nổi bật của khu vực Ba Kè là khu vực biển hoạt động nhạy cảm và hết sức phức tạp, nước ngoài thường xuyên sử dựng tàu nghiên cứu, tàu cải dạng, tàu chiến vào thăm dò địa chấn, trinh sát, quấy rối, vi phạm chủ quyền của ta. Ngoài ra, có nhiều tàu cá Hồng Công, Philippines… xuống đánh bắt trái phép hải sản khu vực này. Hoạt động của tàu nước ngoài tập trung nhiều vào các tháng 3, 4, 5 và tháng 9 tháng 10, thời kỳ sóng yên, biển lặng. Bởi vậy công tác sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu của cán bộ, chiến sĩ các nhà trạm Ba Kè luôn căng thẳng, yêu cầu rất cao.

Thực hiện chủ trương xây dựng Cụm kinh tế – khoa học – dịch vụ (DK1), từ ngày 12 đến 16 tháng 6 năm 1989, Bộ Giao thông – Vận tải phối hợp với Bộ Tư lệnh Công binh tiến hành lắp dựng xong nhà giàn đầu tiên tại bãi ngầm Ba Kè (tên địa danh hành chính là Trạm kinh tế – khoa học – dịch vụ Ba Kè, thuộc tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu). Trạm Ba Kè A (DKI/4) thiết kế theo kiểu khung nhà liên kết với chân đế pông tông bơm bê tông đánh chìm, định vị bằng các cột bê tông chôn sâu xuống thềm san hô. Tháng 8 năm 1993, Nhà nước ta tiếp tục xây dựng Trạm kinh tế – khoa học – dịch vụ Ba Kè B (DKI/9) cách trạm cũ 7 hải lý. Ngày 22 tháng 8 năm 1993, 1 khung gồm 8 cán bộ, chiến sĩ nhà giàn (DKI/9) Tiểu đoàn DK1 ra tiếp nhận, chốt giữ bảo vệ Trạm kinh tế – khoa học – dịch vụ Ba Kè B tiếp tục làm nhiệm vụ là lực lượng tại chỗ bảo vệ nhà trạm và quản lý khu vực biển và vùng trời được phân công. Ngày 13 tháng 8 năm 1998, xây dựng xong Trạm kinh tế – khoa học – dịch vụ Ba Kè C (DKI/20) và 1 khung nhà giàn (DKI/20) ra tiếp nhận chốt giữ trạm Ba Kè C. Ngày 19 tháng 8 năm 1998 xây dựng xong trạm Ba Kè Đ (DKI/21) và khung nhà giàn (DKI/21) ra tiếp nhận chốt giữ trạm Ba Kè Đ. Như vậy, đến năm 1998, nhà nước ta xây dựng 4 trạm dịch vụ trên bãi ngầm Ba Kè. Kết cấu của nhà vững chắc, có thể chống chọi, chịu đựng sóng trên cấp 12.

Theo VNSEA.NET

Chiều Trên Phá Tam Giang

Chiều trên phá Tam Giang
Anh sực nhớ em
Nhớ bất tận.

Giờ này thương xá sắp đóng cửa.
Người lao công quét dọn hành lang.
Những tủ kính tối om.
Giờ này thành phố chợt bùng lên
Để rồi tắt nghỉ sớm.
(Sài Gòn nới rộng giờ giới nghiêm.
Sài Gòn không còn buổi tối nữa.)
Giờ này có thể trời đang nắng.
Em rời thư viện đi rong chơi
Dưới đôi vòm cây ủ yên tỉnh
Viền dòng trời ngọc thạch len trôi.

Nghĩ tới ngày thi tương lai thúc hối,
Căn phòng cao ốc vàng võ ánh đèn,
Quyển sách mở sâu đêm.
Nghĩ tới người mẹ đăm chiêu, đứa em quái quỉ.
Nghĩ tới đủ thứ chuyện tầm thường
Mà cô gái nào cũng nghĩ tới.
Rồi nghĩ tới anh, nghĩ tới anh
Một cách tự nhiên và khốn khổ.
Giờ này có thể trời đang mưa.
Em đi nép hàng hiên sướt mướt,
Nhìn bong bóng nước chạy trên hè
Như những đóa hoa nở gấp rút.
Rồi có thể em vào một quán nước quen
Nơi chúng ta thường hẹn gặp,
Buông tâm trí bập bềnh trên những đợt lao xao
Giữa những đám ghế bàn quạnh quẽ.

Nghĩ tới anh, nghĩ tới anh,
Cơn nghĩ tới không sao cầm giữ nỗi
Như dòng lệ nào bất giác rơi tuôn.
Nghĩ tới, nghĩ tới một điều hệ trọng vô cùng
Của chiến tranh mà em không biết rõ.
Nghĩ tới, nghĩ tới một điều hệ trọng vô cùng
Một điều em sợ phải nghĩ tới.
Giờ này thành phố chợt bùng lên.

Chiều trên phá Tam Giang
Anh sực nhớ em
Nhớ bất tận.

Anh yêu em, yêu nuối tuổi hai mươi
Rực chiếu bao nhiêu giấc mộng đua đòi
Như những mặt trời con thật dễ thương
Sẽ rơi rụng dọc đường lên dốc tuổi,
Mỗi sáng trưa chiều tối đêm khuya.
Anh yêu em, yêu nuối tuổi hai mươi,
Coi chuyện đó như lần đi tuyệt tích
Trong nước trời lãng đãng nghìn trùng,
Không nghe thấy cả tiếng mình độc thoại.
Anh yêu, yêu nuối tuổi hai mươi,
Thấy trong lòng đời nở thật lẻ loi
Một cành mai nhị độ.
Thấy tình yêu như vận hội tàn đời
Để xé mình khỏi ác mộng
Mà người đàn ông mê tưởng suốt thanh xuân.

Ôi tình yêu, bằng chứng huy hoàng của thất bại !

Thơ tuyển Tô Thùy Yên

Những bài thơ về Huế

Tạm biệt

Bởi vì em dắt anh lên những ngôi đền cổ
Chén ngọc giờ chìm đáy sông sâu
Những lăng tẩm như hoàng hôn chống lại ngày quên lãng
Mặt trời vàng và mắt em nâu

Xin chào Huế một lần anh đến
Ðể ngàn lần anh nhớ trong mơ
Em rất thực nắng thì mờ ảo
Xin đừng lầm em với cố đô

Áo trắng hỡi thuở tìm em không thấy
Nắng minh mang mấy nhịp Tràng Tiền
Nón rất Huế nhưng đời không phải thế
Mặt trời lên từ phía nón em nghiêng

Nhịp cầu cong và con đường thẳng
Một đời anh tìm mãi Huế nơi đâu
Con sông dùng dằng con sông không chảy
Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu

Tạm biệt Huế với em là tiễn biệt
Hải Vân ơi xin người dừng tắt ngọn sao khuya
Tạm biệt nhé chiếc hôn thầm lặng
Anh trở về hóa đá phía bên kia

Huế, tháng 8-1983
Thu Bồn

Có răng…rồi mới rứa

Người ở mô răng mà kỳ dữ rứa
Giờ ra chơi, cứ ngó miết người ta
Và reo lên khi thoáng thấy đi qua
Tụi bạn tưởng, “có răng rồi mới rứa”

Thôi từ đây không qua bên nớ nữa
Cho anh chàng cứ đứng ở hành lang
Ngâm nga câu, ” Hoa cúc áo vàng”
Và tương tự, chàng tập làm thi sĩ

Người ở mô, mà vô duyên rứa hỉ
Trao phong bì rồi hấp tấp bỏ đi
Ờ thương thương, nhớ nhớ làm chi
Về ba mạ biết ri la chết

Mắc cớ chi, theo người ta cho mệt
Người răng mà ưa lẽo đẽo làm đuôi
Lỡ một lần, như rứa cũng vui vui
Nhưng ngày mai, thôi đừng theo nữa hí.

T.K

 

Gái Huế

Gái Huế, theo Anh, thật hay hờn
Mới đùa chút xíu, giận Anh luôn
Không cười, không nói, chao ơi khổ
Cứ phải phân trần với thiệt hơn

Gái Huế , theo Anh, thích mộng mơ
Xuân, Hạ, Thu , Đông , cứ vẩn vơ
Ngắm mây, đón gió từ muôn hướng
Nào biết ngay đây có kẻ chờ

Gái Huế, theo Anh, thật hay nhăn
Cứ bắt người ta phải dịu dàng
Cho dù đồng ý, không đồng ý
Đồng ý rằng … nhăn cũng dễ thương

Gái Huế, theo Anh, thật hay buồn
Chỉ chút mưa thôi cũng thê lương
Cũng khóc, cũng làm thơ kể lể
Như thể mưa làm … ướt giòng Hương

Gái Huế, theo Anh, chúa phân bua
Nhất định mè nheo, Anh chịu thua
Ừ phải , lúc nào Cô cũng đúng
Già đầu mà vẫn bướng như xưa

Gái Huế, theo Anh, thật chanh chua
Mô, tê, răng, rứa, cứ như mưa
Háy, nguýt, bỉu môi, thôi đủ cả
Mà sao Anh thấy …vẫn dễ ưa

Gái Huế, theo Anh, thật rất hư
Nhõng nhẽo như còn tuổi mười ba
Vòi vĩnh như mình còn trẻ dại
Trao hết đời Anh, Cô chịu chưa ?

Đặng Lệ Khánh

 

Mắt Huế

Dù ở đâu không thể nào lẫn được
Đôi mắt em thăm thẳm mộng bên trời
Mắt đợi chờ làm điếng cả hồn tôi
Tình như rứa làm răng tôi cất bước?

Dù ở đâu không thể nào quên được?
Mắt – Huế – em là lạ thuở yêu người
Mắt – Nội – thành soi rõ trái tim tôi
Thương là tặng dẫu ngày sau vô phước…

Dù đi đâu cũng không thể nào xa được
Mắt – Huế – xưa theo dõi bóng giang hồ
Tôi phải trôi về những cơn mơ
Áo – tím – Huế bay trong chiều lụa – bạch

Đôi mắt ấy thoạt nhìn như sắp khóc
Dẫu đời tôi hoá đá cũng chao lòng
Mắt u buồn vẫn liếc dáng thuỷ chung
Như mắt mạ chờ cha nơi phố cũ…

Dù ở đâu tôi không thể nào quên được
Mắt – Huế – em ngái ngút vẫn đâm gần
Mắt níu đời quen cho đến trăm năm
Tình như rứa làm răng tôi cất bước?

Trần Dzạ Lữ

 

Đồng Khánh – Huyền Trân xưa

Tôi nhớ mãi một “mai tê” Đồng Khánh
Một mai tê… dễ sợ: Lạnh xa mù
Mai tê rồi bóng xế trăng lu
“Con ve kêu mùa Hạ, biết mấy thu gặp chàng!”

Huế có già mô mà níu kéo thời gian
Lo chi rứa nỗi đá mòn sông cạn
Bảy trăm năm những mùa trăng ly tán
Sông nước Chàm miền châu Rí, Châu Ô

Cô công chúa – tóc xanh màu Đồng Khánh
Tuổi quỳnh dao đành… “cho thiếp đi cùng!”
Ngày Chiêm Quốc, đêm mơ về bến Việt
Mắt Huyền Trân còn đẫm lệ Khắc Chung

Điệu Hời ca bơ phờ đòi đoạn
Sên phách vô tình để lạnh dòng sông
Có phai cũ khi nửa đời xa Huế…
Ngõ sau nhìn, quê mẹ có vời trông?

Tôi, Đồng Khánh, mai tê thời son trẻ
Đã xa quê từ dâu bể mưa nguồn
Hái niềm vui tan tác giữa cơn buồn
Nhớ rưng rức nỗi tha phương dồn tụ

Đồng Khánh ơi, Huyền Trân xưa đó
Nhiều tang thương nên Huế đẹp vô cùng
Sông, nước, biển, trời… nơi mô cũng có
Nhưng não nùng làm Huế đẹp rưng rưng

Khi ở Huế thấy Huế buồn chi lạ
Xa Huế rồi thấy Huế quá mênh mông
Trong nỗi nhớ một cũng là tất cả
Khi thương yêu tất cả sẽ vô cùng.

Trần Kiêm Đoàn

 

Chiếc Nón Bài Thơ Chưa Có Bài Thơ

Vành vạch vầng trăng chiếc nón ngửa em cầm
Trên mặt lá mịn màng hương tóc ấy
Có ai đề câu thơ nào chưa vậy?
Mà bên cầu em cứ đứng vân vê

Buổi quen nhau anh định nói câu gì
(Mà không dám)
Mai em về ngoài nớ
Dòng sông Hương dịu dàng con sóng nhỏ
Đừng quên miền Nam ngọn sóng biển ì ầm

Giờ chia tay em vội vội vàng vàng
Như chàng trai trong ca dao anh chẳng chịu
Quai nón lụa thơm lừng anh khẽ níu
Chứ ai đi níu vạt áo bao giờ

Ôi chiếc nón bài thơ mà chưa có bài thơ
Xui anh nhẩm trong lòng câu hát mãi
Vầng trăng kia chưa đến rằm có phải
Nên em cầm vàng nón cứ nghiêng nghiêng

Năm năm rồi anh chẳng kịp trao duyên
Phút tiễn biệt mới hay mình nhát thế
Cô gái Huế chừ lại về với Huế
Biển lặng rồi anh gởi sóng lòng theo

Cuồn cuộn những vòng tròn thân yêu
Trên mái tóc những vầng trăng đang trốn
Vầng trăng chưa rằm, vầng trăng đang mười bốn
Nắng chưa phai sắc lá quê nhà

Tà áo dài đôi lúc có thể xa
Chứ chiếc nón cách gì em rời bỏ
Chỉ tiếc những ngày cùng chung nhiệm sở
Biển giục anh, anh chẳng dám tỏ tình

Câu thơ tình thành thử vẫn còn nguyên
Trong trái tim thầy giáo người Nam bộ
Phút tiễn biệt đã thành bài thơ nhỏ
Anh muốn đề, biết chiếc nón chịu không?

Nguyễn Thái Dương

 

O quai nón tím

0 con gái tóc dài – quai nón tím
chiều ni về – 0 có nhớ ai không?
guốc khua chi – cho đây nhói cả lòng
áo trắng quá – khiến hồn đây khờ khạo

0 cười duyên – khoe dăm ba hạt gạo
cho đây vay một hạt – để no lòng
sợ nửa khuya về bên ngọn đèn chong
0 dẫm lấm những tờ thơ đây viết

cứ nguýt háy đi – cứ lườm – cứ liếc
miễn 0 đừng biền biệt tháng năm xanh
miễn sáng – trưa – chiều 0 cứ quẩn quanh
sau cửa lớp – ngập ngừng như bụi phấn

ngày hai buổi tan trường ngang mấy bận
đứng bên đường đây cứ mãi ngó mong
quai nón tím ơi … khói thuốc thả vòng
không dám gọi – dù chỉ lời thăm hỏi

0 cứ đi qua – chẳng chờ – chẳng đợi
chẳng đoái hoài đến một gã khờ si
những ngã đường cũng năm bảy lối đi
sao lòng đây chỉ … 0 quai nón tím?

Phan Thị Ngôn Ngữ

 

Nhớ bạn

Tôi về xứ Huế mưa sa
Em ơi Đồng Khánh đã là ngày xưa
Tôi về xứ Huế chiều mưa
Em ơi áo trắng bây giờ ở đâu

Bến Tuần loáng thoáng hàng dâu
Em xa vườn lựu từ lâu lắm rồi
Lối mòn đá cuội rong chơi
Lơ thơ trắng dưới chân đồi hoa mơ

Lan báo hỉ nở tình cờ
Bông ngô đồng rụng xuống bờ Hương Giang
Chợ chiều Bến Ngự chưa tan
Ai đi ngược dốc Phú Cam một mình …

Nguyễn Duy

 

Giọng Huế

Ngắt một chút mây trên lăng Tự Đức
Thả vào mắt em thêm một dáng u hoài
Đôi mắt ấy vốn đã buồn thăm thẳm
Thêm mây vào e tan nát lòng ai

Anh quì xuống hôn lên đôi mắt đó
Bỗng dưng sao thương nhớ Huế lạ lùng
Chắc tại em ngồi bên anh thỏ thẻ
Tiếng quê hương xao động đến vô cùng

” Hẹn chi rứa ? Răng chừ ? Em sợ lắm .”
Mạ ngày xưa cũng từng nói như em
Anh mất mạ càng thương em tha thiết
Như từng thương câu hát Huế êm đềm …

Cám ơn em đã cho anh nhìn lại
Dòng sông Hương trên bến cảng Saigon
Nước như ngọc in hình thuyền lấp lánh
Mái chèo khua vương nhẹ ánh rong non

Nếu lại được em ru bằng giọng Huế
Được vỗ về như mạ hát ngày xưa
Câu mái đẩy chứa chan lời dịu ngọt
Chết cũng đành không hối tiếc chi mô

Tô Kiều Ngân

 

QUA MẤY NGÕ HOA

Chim vỗ cánh nắng phai rồi đó
Về đi thôi O nớ … chiều rồi
Ngó làm chi mây trắng xa xôi
Mắt buồn quá chao ơi là tội !

Tay nhớ ai mà tay bối rối
Áo thương ai lồng lộng đôi tà
Đường về nhà qua mấy ngõ hoa
Chớ có liếc mắt nhìn ong bướm

Có chi mô mà chân luống cuống
Cứ tà tà ta bước song đôi
Đi một mình tim sẽ mồ côi
Tóc sẽ lệch đường ngôi không đẹp

Để tóc rối cần chi phải kẹp
Nắng sẽ chia nghìn sợi tơ huyền
Buộc hồn O vào những cánh chim
Bay lên đỉnh hồn anh ngủ đậu

Cứ mím môi rứa là rất xấu
O cười tươi duyên dáng vô cùng
Cho anh nhìn những hạt răng xinh
Anh sẽ đổi ngàn ngày thơ dại

Mi khẽ chớp nghĩa là sắp háy
Háy nguýt đi giận dỗi càng vui
Gót chân đưa bước mộng bồi hồi
Anh chợt thấy trần gian quá chật

Không ngó anh răng nhìn xuống đất
Đất có chi đẹp đẽ mô nờ
Theo nhau từ hôm nớ hôm tê
Anh hỏi mãi răng O không nói ?

Tình im lặng tình cao vời vợi
Hay nói ra sợ dế giun cười
Sợ phố ghen đổ lá me rơi
Sợ chân bước sai hồi tim nhịp

Cứ khoan thai rồi ra cũng kịp
Vạn mùa Xuân chờ đón chung quanh
Vạn buổi chiều anh vẫn lang thang
Vẫn theo O giờ về tan học

Từ bốn cửa Đông Tây Nam Bắc
Đến bốn mùa Xuân Hạ Thu Đông
Theo nhau về như sáo sang sông
Như chuồn chuồn có đôi có cặp

Chim chìa vôi chuyền cành múa hát
Trên hư không ve cưới mùa Hè
O có nghe suốt dọc đường về
Sỏi đá gọi tên người yêu dấu

Hoa tầm xuân tím hoang bờ dậu
Lòng anh buồn chi lạ rứa tề
Nón nghiêng vành nắng chết đê mê
Anh mê sảng theo chiều tắt chậm

Chiều đang say vì tình vừa ngấm
Hai hàng cây thương nhớ mặt trời
Chiều ni về O nhớ thương ai ?
Chiều ni về chắc anh nhuốm bệnh

Thuyền xuôi giòng, ngẩn ngơ những bến
Anh như là phố đứng trông mưa
Anh như là quế nhớ trầm xưa
Sợ một mai O qua mất bóng

Một mai rồi tháng năm sẽ lớn
O nguôi quên những sáng trời hồng
O sẽ quên có một người mong
Một kẻ đứng dọc đường trông đợi

Còn nhớ chi ngôi trường con gái
Lớp học sầu khung cửa giờ chơi
Cặp sách quăng đâu đó mất rồi
Vì O bận tay bồng, tay bế

Chuyện hôm ni sẽ thành chuyện kể
Những lúc chiều đem nắng sang sông
O bâng khuâng nhè nhẹ hỏi lòng
Mình nhớ ai mà buồn chi lạ !

Chim vỗ cánh nắng phai rồi đó
Về đi thôi O nớ chiều rồi
Ngó làm chi mây trắng xa xôi
Mắt buồn quá chao ơi là tội

 

Chút Tình Với Huế
Phạm Ngọc

Thành phố đó bao giờ em trở lại
Huế ngàn năm như Huế vẫn bây giờ
em Tôn Nữ mang tấm lòng e ngại
để Cấm Thành xa mãi một giòng thơ

Huế và tôi lầm lũ những cơn mưa
đâu kỷ niệm còn thơm mùa phượng cũ
em ngày xưa môi trầm hương tóc gió
tôi ngày xưa bối rối phút đợi chờ

Hương Giang ơi ! Thương lắm những chuyến đò
có em về soi hình trên sóng nước
áo em bay trong chiều thu gió ngược
tim bồi hồi ánh mắt thuở làm quen

Huế bây giờ đã vắng bước chân chim
tôi ngơ ngẩn nhớ mùa trăng Vỹ Dạ
biết không em giữa trời xuân xứ lạ
nghe vọng từ Thiên Mụ những hồi chuông…

 

Đây thôn Vĩ Dạ

Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên,
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay…
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay?
Mơ khách đường xa, khách đường xa,
Áo em trắng quá nhìn không ra…
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?

– Hàn Mặc Tử